BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Gv
1, 2-11
2
Ông Cô-he-lét nói : "Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất
cả chỉ là phù vân.3 Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao
gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời ?4 Thế hệ này đi, thế hệ kia
đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn.5 Mặt trời mọc rồi lặn ; mặt
trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên.6 Gió thổi xuống phía nam,
rồi xoay về phía bắc : gió xoay lui xoay tới rồi gió đi ; gió trở qua trở lại
lòng vòng.7 Mọi khúc sông đều xuôi ra biển, nhưng biển cũng chẳng
đầy. Sông chảy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục.8 Chuyện gì cũng
nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ,
tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới.9 Điều đã có, rồi ra sẽ
có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra :dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ ? 10
Nếu có điều gì đáng cho người ta nói : "Coi đây, cái mới đây này !",
thì điều ấy đã có trước chúng ta từ bao thế hệ rồi.11 Chẳng ai còn
nhớ đến người xưa, và đối với những người đến sau thì cũng thế ; các thế hệ mai
sau sẽ chẳng còn nhớ đến họ.
ĐÁP CA : Tv
89
Đ. Lạy
Chúa, trải qua bao thế hệ, Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn. (c 1)
3 Chúa
bắt phàm nhân trở về cát bụi, Ngài phán bảo: "Hỡi người trần thế, trở về
cát bụi đi! " 4 Ngàn năm Chúa kể là gì, tựa hôm qua đã qua đi
mất rồi, khác nào một trống canh thôi!
5 Ngài
cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,như cỏ đồng trổi mọc ban mai, 6 nở
hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
12 Xin
dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.13
Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ?Xin chạnh lòng thương xót những tôi
tớ Ngài đây.
14 Từ
buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa,để ngày ngày được hớn hở vui
ca.17 Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là
Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố,xin củng cố việc
tay chúng con làm.
BÀI GIẢNG
ẨN THÂN NƠI CHÚA KHÔNG CÒN PHÙ VÂN
Ta
biết vua Salômôn không xin Chúa ban ơn Phúc – Lộc – Thọ, chỉ xin Chúa ban cho
tấm lòng biết nghe, làm Chúa hài lòng, và Ngài đã ban cho ông khôn ngoan và
giàu có đến nỗi không ai sánh được (x 1V 3,9-13). Nhưng cuối đời, khi nhìn lại,
ông thấy mọi sự chỉ là phù vân, đây không phải là trải nghiệm riêng vua
Salômôn, mà hết thảy mọi người khi nhìn lại đời mình, ai cũng thốt lên như vua
Salômôn : “Mọi sự chỉ là phù vân”.
Cho nên khi vua Salômôn viết tác phẩm Giảng viên để răn đời, ông không đề tên
mình, mà ông lấy danh “Qohelet”, có nghĩa là cả cộng đoàn đều phải nhận chân
rằng : “Phù vân quả là phù vân, lợi lộc
gì đâu cho con người phải chịu đựng bao nhiêu gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt
trời ? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến. Chỉ có trái đất mãi mãi trường tồn. Mặt
trời mọc rồi lại lặn, gió thổi đi rồi vòng lại, nước chảy ra biển mà biển không
tràn, sông chảy tới đâu từ đó sông lại tiếp tục…Mắt có nhìn bao nhiêu cũng
chẳng thấy gì lạ. Điều đã có, rồi ra sẽ có, chẳng có gì mới ở trên đời” (x
Gv 1,2-11 : Bài đọc năm chẵn).
Như
thế Qohelet muốn nói : Con người có lúc xuất hiện trên trái đất, có ngày khuất
đi, rồi sẽ có thời tái xuất hiện nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa
Giêsu. Ngày ấy : “Mọi người sẽ từ cõi chết sống lại,và mỗi người lãnh thành quả đời mình
lành hay dữ tùy theo việc tốt hay xấu đã làm khi còn trong thân xác”
(2Cr 5,10). Ai không kết hợp với Chúa Giêsu, thì vào ngày cánh chung, mọi sự
đối với họ không chỉ là phù vân mà còn trở thành án phạt, như Đức Giêsu nói : “Phải vào lửa đời đời đã dọn sẵn cho ma quỷ
cùng các chư thần của nó” (Mt 25,41) ; Nhưng ai sống kết hợp với Chúa
Giêsu, mọi sự đã thuộc về họ, kể cả tội lỗi thì, của phù vân lại trở thành ơn phù hộ. Vì thế thánh Tông Đồ nói : “Ở đâu tội lỗi nhiều, ở đó ân sủng càng chan
chứa” (Rm 5,20).
Do đó, ai thuộc về Chúa
Kitô thì không còn run sợ. Kẻ không có Chúa Giêsu vì nán lại trong tội ác, tâm
hồn nó lúc nào cũng bấn loạn, mất bình an. Đan cử như vua Hêrôđê tưởng đã giết
được ông Gioan Bt là nhổ được cái gai làm nhức đầu, vì ông Gioan Bt phản đối
vua không được cướp vợ của anh làm vợ mình! Nhưng thực ra vua đã thất bại, vì
sau khi ông ra lệnh cắt đầu ông Gioan, tâm hồn ông lúc nào cũng nơm nớp lo sợ
ông Gioan sống lại để báo oán (x Lc 9,7-9 : Tin Mừng), như thuở xưa vua Saolê không
nghe lời ngôn sứ Samuel, nên bị quân Philitinh dấy lên tấn công. Ông biết mình
bất lực trước sức mạnh của đối phương, khiến ông run sợ phải cầu cứu với Thiên
Chúa, nhưng Ngài không thèm trả lời, vì ngôn sứ Samuel đã qua đời. Thế là vua
giả dạng làm thường dân đến với thầy chiêm, xin gọi hồn ngôn sứ Samuel về, hy
vọng được ông Samuel chỉ đường phản công quân Philitinh, nhưng ông Samuel hiện
về lại nói : “Tại sao ngài thỉnh ý tôi,
trong khi ĐỨC CHÚA đã rời khỏi ngài và đã trở nên thù địch với ngài? ĐỨC CHÚA
đã hành động như Người đã dùng tôi mà phán: ĐỨC CHÚA đã giật vương quyền ra
khỏi tay ngài và ban cho một người khác là Đa-vít. Bởi vì ngài đã không nghe
tiếng ĐỨC CHÚA và đã không trút cơn thịnh nộ của Người xuống A-ma-lếch, cho nên
hôm nay ĐỨC CHÚA đã xử với ngài như thế. Vua nghe được, ông ngã sóng sượt xuống
đất vì quá sợ hãi về những lời ông Samuel nói” (x 1Sm 28,3-20).
Đức
Giêsu nói cho những kẻ chống đối Ngài : “Ông
Gioan là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông
trong một thời gian” (Ga 5,35). Thế mà vua Hêrôđê đã ra lệnh cắt đầu ông,
ông như ngọn đèn bị dập tắt, để Chúa Giêsu là Mặt Trời Công Chính mọc lên (x Ga
5,35 ; 3,30 ; Lc 1,78), Ngài làm nhiều phép lạ lẫy lừng khiến vua Hêrôđê tưởng
Đức Giêsu là ông Gioan Bt sống lại để phóng họa xuống ông, như ngôn sứ Samuel
đã hiện về chúc dữ cho vua Saolê.
Thực vậy, khi vua Hêrôđê
nghe biết tất cả những việc lẫy lừng Đức Giêsu làm, ông lo lắng phân vân, vì có
kẻ nói : “Gioan đã sống lại từ cõi chết ;
kẻ khác nữa nói : đó là ông Êlya hiện về, mà Êlya hiện về nhiều người thời ấy
kể cả môn đệ Đức Giêsu đều hiểu là ông Gioan Bt” (x Mt 17, 9-13), đến nỗi
ông hoảng hốt thốt lên : “Gioan ta đã cho
chém đầu rồi mà?” (Lc 9,7-9a : Tin Mừng). Tâm trạng vua Hêrôđê bất an như
thế đã minh chứng Lời Kinh Thánhnói : “Kẻ
ác luôn luôn chạy trốn, dù không ai đuổi bắt” (Cn 28,1). Đúng là “chưa đánh được người thì mặt đỏ như vang,
đánh được người thì mặt vàng như nghệ” (tục ngữ). Loài hổ sau khi xâu xé
con mồi, nó lăn quay ra ngủ ngon ; trái lại con người dù có đánh gục đối thủ
cũng không sao chợp mắt được ! Bởi vậy “thà chết vì chân lý hơn là sống không chân
lý”. Do đó muốn có chân lý thì phải tìm gặp Chúa Giêsu,như vua Hêrôđê
trong lúc hoảng sợ lại muốn đi gặp Đức Giêsu (x Lc 9,9b : Tin Mừng).
Ý
hướng của vua Hêrôđê muốn gặp Đức Giêsu trở thành động lực thúc bách con người
tội lỗi cũng phải giống Hêrôđê tìm gặp Đức Giêsu,vì chỉ ai đến nghe Lời Đức
Giêsu, người đó mới gặp được Chân Lý (x Ga 18,37).
Đối
với người Công Giáo, tìm gặp Chân Lý, tìm gặp Chúa Giêsu cụ thể, phải đi dự Lễ,
vì mỗi lần ta hiệp dâng Thánh Lễ với Hội Thánh cách trọn vẹn là ta được đồng
hóa với Chúa Giêsu vì cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự sống
với Thiên Chúa (x Dt 2,11.14; Ga 6,57; Gl 2,20). Chính vì vậy, khi vua Hêrôđê
muốn gặp Đức Giêsu, thì ngay sau đó ông Luca cho thấy Đức Giêsu hóa bánh ra
nhiều để nuôi dân. Đây là dấu chỉ Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể, để đáp ứng
khát vọng những ai đi tìm Chân Lý, tìm gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x Lc 9,10t).
Bởi vì, chỉ trong Thánh Lễ ta mới nói được : “Trải qua bao thế hệ, Chúa là nơi chúng con trú ẩn” (Tv 90/89,1 : ĐC
năm chẵn), vì “Chúa mến chuộng dân Người”
(Tv 149,4: ĐC năm lẻ). Mà có dự Lễ, ta mới thực sự được trú ẩn “trong
Thánh Điện Giêsu”. Thánh Điện
này quý giá đến nỗi không đền thờ vật chất nào sánh bằng, kể cả Giêrusalem, dù
thánh điện này được “ngôn sứ Khac-gai
động viên dân phải lên rừng, lên núi, lấy gỗ quý, đá ngọc về xây dựng. Ai để
nhà mình đẹp hơn Nhà Chúa, thì Chúa sẽ đóng cửa Trời không cho mưa thuận gió
hòa, nên có gieo vãi cũng chẳng thu hoạch! Có ăn mà không đủ no, có uống mà
không đủ say, có mặc mà không đủ ấm, đồng lương làm ra lọt qua túi thủng”
(Kg 1,1-8 : Bài đọc năm lẻ).
Thực
vậy, chính Chúa Giêsu mới là Đền Thờ cho muôn dân đến trú ẩn. Vì khi Ngài lấy
dây thừng bện thành roi đánh đuổi phường buôn bán chiên bò bồ câu,cả những
người đổi tiền ra khỏi Đền Thờ và,báo trước về số phận đền thờ Giêrusalem cho
những kẻ muốn giết Ngài: “Cứ phá Đền Thờ
này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Nói thế là ám chỉ chính
Ngài sẽ bị người ta giết (phá), nhưng sau ba ngày Ngài sẽ từ cõi chết sống lại
(x Ga 2,19-21). Ai đến trú ẩn nơi Ngài, thì được Ngài dẫn đưa vào nguồn sống,
như Ngài nói : “Chính Thầy là con đường,
và là sự thật, sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”
(Ga 14,6 : Tung Hô Tin Mừng)
THUỘC LÒNG
Kẻ ác luôn luôn chạy trốn, dù không ai đuổi
bắt! Còn người công chính đứng vững
tựa sư tử non ! (Cn 28,1).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH