BÀI GIẢNG
CHÚA BẢO GÌ CỨ
LÀM THEO! (Ga 2,5)
Chúng ta biết thuyền các Tông Đồ gặp
sóng gió sau khi Đức Giê-su hóa bánh cá cho dân ăn no nê. Đó là dấu chỉ người
Ki-tô hữu dù mỗi ngày được ăn Bánh Hằng Sống (rước Lễ), nhưng vẫn còn gặp sóng
gió. Thực vậy, trình thuật thuyền các môn đệ gặp sóng gió trên biển (x Mt
14,22-33 : Tin Mừng) báo trước sóng gió Hội Thánh phải đương đầu, sau khi Chúa
Giê-su đã đánh gục tử thần đi vào vinh quang với Cha. Bởi vì những chi tiết xảy
ra trong trình thuật này được lặp lại sau khi Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại
:
Có nhiều loại sóng gió
:
1. SÓNG GIÓ CHÚA CHO PHÉP XẢY ĐẾN ĐỀ HUẤN LUYỆN CON NGƯỜI, như núi lửa, động đất,
bệnh tật, sự chết. Sóng gió này xảy ra trong một giai đoạn. Sở dĩ Chúa cho phép
sự dữ này xảy đến là muốn nhắc hết mọi người : Trái đất chỉ là quán trọ, ai cũng phải chuẩn bị cho
ngày ra đi định cư nơi Quê Hương vĩnh viễn. Muốn được thế, phải luôn chuẩn bị
cho ngày chết của mình. Ông Pascal, nhà Toán học, Vật lý và Triết gia nói : “Vũ trụ có khả năng đè bẹp tôi, nhưng tôi vẫn
hơn cả vũ trụ, vì vũ trụ không biết gì về chiến thắng của nói, còn tôi, tôi
biết về sự chết của mình”. Như vậy ông Pascal có ý nói : Người nào biết
chuẩn bị hành trang cho ngày ra khỏi thế gian, người ấy quý hơn giá trị cả vũ
trụ cộng lại. Những sóng gió trên đây không độc ác,không đau bằng những sóng
gió gây ra bởi những người Đức Giêsu đã tuyển chọn,vì không thực hành lời Mẹ
Maria dạy “ Giêsu bảo gì, cứ làm theo” (Ga.2,5) . Đan cử:
2. SÓNG
GIÓ DO NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG ĐẠO TẤN CÔNG NHỮNG SỨ GIẢ CỦA CHÚA: Các môn đệ đều bị
hành hạ, bị giết chết chỉ vì nhiệt tình giảng Tin Mừng ; các tín hữu thuộc giáo đoàn Roma suốt 300 năm bị đế quốc Roma
trù dập không trông sống nổi! Nhất là ông Phao-lô dù được Chúa ở cùng, nhưng
ông không thoát khỏi nỗi đau khổ bởi những người đồng chủng, đồng đạo gây nên,
vì họ chỉ tin vào thế lực Luật Mô-sê mà được trở nên công chính, chứ không tin
vào Chúa Giê-su. Bởi đó họ đã gây đau khổ cho ông, như ông nói : “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi
không ngơi. Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà
tôi bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng. Họ là người
Israel, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban
tặng các Giao Ước, Lề Luật, một nền phụng tự và các lời hứa ; họ là con cháu
các tổ phụ, và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một
nòi giống với họ” (Rm 9,2-5 : Bài đọc II). Mỗi lần ông bị người đồng chủng,
đồng đạo tấn công, họ đều đánh ông tối đa 39 roi (x 2Cr 11,24). Tông Đồ của Đức
Giê-su đau khổ như thế cũng chẳng lạ gì, ngay vị đại ngôn sứ Ê-ly-a sau khi đã
thành công dâng lễ trên núi Carmen, ông còn giết luôn các tư tế thờ thần Baal,
nên ông bị vua Akhaz truy nã, ông vội chạy trốn lên núi, xin Chúa ra tay che
chở,trong lúc ấy ông chợt thấy gió xé núi non, đập vỡ đá, rồi lại thấy động
đất, sau lại thấy lửa bốc cháy, ông tưởng là Chúa đang đến bày tỏ sức mạnh để
bênh đỡ ông, nhưng ông không thấy Chúa hiện đến, sau đó ông nghe tiếng gió hiu
hiu, lúc đó Chúa mới hiện diện, ông lấy áo choàng che mặt rồi ra đứng ở cửa
hang đón Ngài (x 1V 19,9a.11-13a : Bài đọc I). Chúa đến trong làn gió hiu hiu
là báo trước ngày Chúa Giê-su ra tay cứu độ loài người, Ngài lội xuống sông
Gio-đan để ông Gioan làm phép rửa cho, lúc ấy Thánh Thần Chúa xuất hiện qua làn
gió hiu hiu nghe như tiếng chim câu bay đến (x Mt 3,16b). Chúa Thánh Thần là
Dầu Chúa Cha dùng xức trên Chúa Giê-su, để Ngài thi hành quyền Vua cứu độ loài
người.
Vậy
để chuẩn bị cho ngày ra đi cuối đời, Chúa muốn ai cũng nhớ đến thân phận yếu
hèn của mình, bất lực trước đòi hỏi nên giống Cha trên trời (x Mt 5,48) mà ăn
năn sám hối, xin Chúa thương xót. Chính vì vậy mà thánh Tông Đồ đã khiêm tốn và
can đảm thú nhận tội mình với giáo đoàn Roma : “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi.
Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi
muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm
7,18-19). Khi cầu nguyện, Tông Đồ Phao-lô đã nhận ra rằng Chúa cho phép sự dữ
xảy đến để ông khỏi tự cao tự đại về những mạc khải cao siêu Chúa ban và để
quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện trọn vẹn trong con người yếu đuối ! (x
2Cr 12,7-10).
Như thế các loại sóng gió trên cần
thiết phải xảy đến để con người biết sợ tội, biết sợ sự chết mà sống tốt hơn.
3. SÓNG GIÓ DO GIÁO
SĨ BỎ VIỆC CHÍNH MÀ LÀM VIỆC PHỤ.
Cụ thể
các môn đệ vì được dân tín nhiệm, họ bán cả tài sản lấy tiền đặt dưới chân các
ông, để các ông phân phát đồng đều cho mọi người, không còn người giàu, kẻ
nghèo (x Cv 2,42t). Vì quá bận rộn công việc này nên các ông đã xao nhãng việc cầu nguyện và giảng Lời. Hậu quả gây sóng gió
trong cộng đoàn, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà góa bị bỏ
quên (x Cv 6, 1-7).Thánh Phaolô nhắc nhở cho Giám Mục Timôthêu:“Nhiều kẻ hình thức của đạo Thánh thì họ
còn giữ,nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ.Anh hãy xa lánh cả những người ấy” (2 Tm.3,5 bản dịch
PVGK) .Thánh Augustin nói mỉa mai : “Bạn chạy khỏe lắm, nhưng trật đường mất
rồi”.
Sự cố trên ngày nay vẫn còn tiếp
diễn nơi hàng giáo sĩ, hầu hết các ngài
bận rộn lo việc mục vụ như xây Nhà Thờ, chăm lo cho người nghèo, hoặc tổ chức
những lễ hội linh đình, nên không còn giờ để cử hành các Bí tích cách tích cực
và chu đáo, nhất là không đủ giờ đọc kỹ các Bài đọc trong Thánh Lễ, để tìm ra sợi dây giáo lý
xuyên suốt theo đúng quy định trong Hiến
Chế Phụng Vụ số 24 : “Trong việc cử hành Phụng Vụ, Thánh
Kinh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh
trích từ Thánh Kinh những Bài để đọc, những Bài để dẫn giải trong
Bài giảng. Phải xúc tiến việc
canh tân, phát triển và thích ứng Phụng Vụ, cần phải phát huy lòng mộ mến Kinh
Thánh đậm đà và sống động”, và số 52 : “Bài giảng phải
căn cứ vào Thánh Kinh, để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và những quy tắc cho
đời sống Ki-tô giáo trong suốt chu kỳ năm Phụng Vụ, rất đáng được coi như một
phần của chính Phụng Vụ”. Bởi thế, nếu không giảng đúng quy luật Phụng Vụ
này, thì không còn phải là giảng Lời Chúa, trở thành kẻ nói dối, Kinh Thánh
nặng lời kết án loại này : “Nơi con người, nói dối là điều đê tiện
xấu xa, kẻ dốt nát cứ luôn mồm nói dối. Trộm cắp còn đỡ hơn nói dối, nhưng cả
hai đều chuốc lấy hư vong. Kẻ quen nói
dối là kẻ vô liêm sỉ,nỗi nhục không bao giờ rời xa nó.” (Hc 20,24-26).
Thực vậy, ngôn sứ Kha-nan-gia tự cho
mình nhân danh Thiên Chúa mà nói những điều đẹp lòng mọi người : dân không còn
cảnh lưu đày, ông chứng minh bằng việc
lấy gông gỗ đang đeo cổ ngôn sứ Giê-rê-mi-a mà bẻ nát quăng đi,nhưng hành động
ấy chỉ là dối gạt, không đúng ý Chúa, nên Chúa phán với ngôn sứ Giê-rê-mi-a
rằng : “Hãy đi nói với Kha-nan-gia Chúa
phán thế này : ngươi đã bẻ gãy cái gông bằng gỗ, thì hãy làm những cái gông
bằng sắt thế vào. Quả thật, Ta sẽ quàng một cái ách bằng sắt vào cổ tất cả các
dân này, khiến chúng phải làm tôi Nabukodonosor, vua Babylon. Ngay cả những giống vật ngoài đồng,
Ta cũng trao cho nó”. Như vậy vì ngôn sứ
Kha-nan-gia nói dối mà dân phải khổ hơn trước, và ông phải chết vào
tháng thứ bảy năm ấy (x Gr 28,1-17).
Ngày nay rất nhiều chủ chăn không có
tinh thần giảng giống Chúa Giê-su,cũng chẳng giống các Tông Đồ. Thực vậy:
- Đức
Giê-su giảng cho dân tới ba ngày, họ phải bỏ việc, bỏ ngủ, nhịn ăn để nghe Ngài, mà chẳng
thấy ai phàn nàn. Đức Giê-su thấy thế Ngài chạnh lòng thương, nói với các môn
đệ : “Ta xót thương dân này bởi đã ba
ngày rồi họ lưu lại với Ta mà không có gì ăn! Để họ nhịn đói mà lui về thì Ta
không muốn, kẻo họ xỉu mất dọc đường” (Mt 15,32), Ngài còn thức suốt đêm
dậy giáo lý cho ông Ni-cô-đê-mô vì ông này tỏ ra cứng tin (x Ga 3). Nhưng không
phải lúc nào Ngài giảng cũng được mọi người chấp nhận. Đan cử có lần Đức Giê-su
giảng về Bí tích Thánh Thể, một chủ đề quan trọng nhất, thế mà toàn dân và
nhiều môn đệ phê bình Ngài ăn nói sống sượng, nên nhất loạt quay gót bỏ đi! Dù vậy
Ngài cũng không hối hận vì bài giảng của mình, Ngài còn thách thức cả Nhóm Mười
Hai : “Cả các ngươi, các ngươi không muốn
bỏ về hay sao?” (x Ga 6,22-71).
- Ông
Phao-lô đến phục vụ tại Trôa suốt một tuần lễ, ngày cuối cùng ông giảng tới sáng khiến
anh Êutykho từ lầu ba ngủ gật nhào đầu xuống đất, mọi người nghĩ anh đã chết.
Thế mà ông Phao-lô không cho ai đưa xác anh đi, ông ôm anh đặt nằm dưới chân và
tiếp tục giảng cho đến sáng. Chấm dứt bài giảng anh Êutykho cũng hòa vào dòng
người ra về trong vui vẻ. Điều này chắc chắn là nhờ Đức Tin của ông Phao-lô, vì
ông xác tín rằng cứ giảng Lời Chúa, không làm ai phải chết, dù có chết cũng
sống lại bình an (x Cv 20,7t).
Nhìn
hai mẫu giảng như trên, cho chúng ta xác tín : Người giảng Lời Chúa có quyền
bắt người khác nghe, không chiều theo ý ai. Thánh Phao-lô nói : “Nếu tôi luôn làm hài lòng người đời, tôi
không còn là nô lệ của Đức Ki-tô” (Gl 1,10), và giáo dân phải quảng đại,
phải từ bỏ những nhu cầu cần thiết cho thân xác để có nhiều giờ đến nghe Lời
Chúa để không thua các tín hữu thuở ban đầu.
Tiếc rằng bữa ăn nuôi thân xác ai
cũng thích ngồi lâu để dùng nhiều món, chẳng ai quan tâm đến thời giờ. Trái lại
bữa ăn nuôi linh hồn thì người ta rất sợ nghe giảng nhiều điều!
Để nhấn mạnh người giảng Lời cần có
nhiều giờ để trình bày nhiều điều giống Chúa Giê-su và người nghe cần phải
quảng đại dành nhiều thời gian mới đón nhận được tất cả những điều Chúa muốn
nói. Nói cách khác Phụng Vụ Lời Chúa cần được kéo dài. Thánh sử Luca ghi lại
cho chúng ta hai chứng từ đáng phải suy nghĩ :
- Người
giảng cần có nhiều thời giờ. Đức Giê-su mới lên 12 tuổi theo cha mẹ đi lễ đền thờ
Giêrusalem, cuộc lễ kéo dài một tuần, sau khi mọi người ra về, Ngài còn trốn
cha mẹ ở lại để trao đổi giáo lý với các bậc tấn sĩ (x Lc 2,41-52). Rõ ràng Đức
Giê-su muốn Phụng Vụ Lời Chúa không phải chỉ được kéo dài trong Thánh Lễ theo
Luật, mà cần phải dạy dỗ dân nhiều điều (x Mc 6,34).
- Người
nghe cần phải quảng đại dành nhiều thời gian. Ông hoạn quan nước Á, dù là người ngoại
giáo ông cũng đi lễ ở đền thờ Giêrusalem, lễ xong trên đường về, ngồi trên xe
ông mở Sách Thánh đọc, dù không hiểu, Chúa thương tình sai Phó tế Philip đến
giải thích Thánh Kinh và ban Thánh Tẩy cho ông (x Cv 8,26-40). Điều này Kinh
Thánh muốn nhấn mạnh : Cả đến người ngoại sau khi dự Lễ ra về còn muốn tiếp tục
tìm hiểu Lời Chúa. Trong khi đó những người “đạo gốc” thì chỉ muốn Phụng Vụ Lời
Chúa càng vắn càng tốt!
Nhìn vào Hội Thánh trên hoàn vũ,
nhiều nước trước đây có sức truyền giáo mạnh, nhưng hôm nay chẳng còn mấy người
muốn đến Nhà Thờ, vì họ đã không thực hành lời Đức Maria dạy : “Chúa bảo gì cứ làm theo”, mặc dù xác tín
Lời Chúa rất cần thiết trong cuộc sống như trình bày ở trên. Kìa sau lụt Hồng
Thủy, con cháu Noe muốn xây dựng tháp Babel chạm Trời để lưu danh muôn thuở,
khi họ còn chung một ngôn ngữ, tháp cứ thế mà vươn lên, nhưng khi họ bất đồng
ngôn ngữ, thì việc xây tháp bất thành (x St 11). Con cháu Noe đó chính là tiền
thân những người qua nước Bí tích Thánh Tẩy vào Hội Thánh mới chính là tầu Noe
(x 1Pr 3,20t). Ngày nay nhiều người Công Giáo bỏ đạo hoặc không muốn đến Nhà
Thờ, cũng chẳng hy vọng kết thúc cuộc đời sẽ được “chạm Trời” (lên Thiên Đàng),
trừ khi các Nhà Thờ Công Giáo, mọi chủ chăn đều dựa vào các bản văn Kinh Thánh
mà Hội Thánh đã chọn đọc trong Thánh Lễ, để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và
những quy tắc cho đời sống Ki-tô giáo
trong suốt chu kỳ năm Phụng Vụ (x Hiến Chế Phụng Vụ số 52).Có như thế, hàng
giáo sĩ mới thực hiện giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Sắc Lệnh Đời Sống
Các Linh Mục số 4 : “Dân Chúa được quy tụ trước nhất là nhờ
Lời Chúa, Lời này đặc biệt phải tìm thấy trên môi miệng các Linh mục, vì Linh
mục mắc nợ giáo dân về Lời Chúa”.
Đức Hồng y Yves Congar, một Thần học
gia nổi tiếng, ngay khi chưa được tấn phong Hồng y, ngài đã đóng vai trò quan
trọng trong việc soạn thảo các Bản Văn CĐ Vat.II, cho nhận xét rất chí lý : “Tôi có thể trích dẫn một loạt các bản văn để
quả quyết rằng : một giáo xứ suốt ba mươi năm không có Thánh Lễ,chỉ nghe giảng
Lời cách cặn kẽ, thì chắc chắn về mặt Đức Tin của họ rất vững mạnh và Đức Ái
sống động tuyệt vời, hơn hẳn một giáo xứ
suốt ba mươi năm giáo dân chỉ dự Lễ
mà không được nghe giảng”.
Chính vì vậy mà thánh Phao-lô nói :
“Đức Ki-tô đã chẳng sai tôi đi làm phép
rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ
khôn khéo, để thập giá Đức Ki-tô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr 1,17).
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã
lưu ý và nhắc nhở cho các mục tử : “Một nỗi nguy hiểm thường xảy ra nơi các
giáo sĩ, là họ quá hăng say trong những công việc của Chúa, mà quên mất Chúa là
Chủ công việc”.
4.
SÓNG GIÓ LY KHAI HỘI THÁNH CÔNG GIÁO. Dựa vào các sự cố Hội Thánh gặp sóng gió trên đây, ta có
quyền xác tín rằng đó lý do làm cho nhiều tín hữu ly khai với Hội Thánh. Thật
vậy,
- Sở dĩ có anh em Chính Thống Giáo hoặc Anh Giáo, vì họ không
tin Đức Giáo hoàng là thủ lãnh Chúa đặt làm dấu chỉ hiệp nhất trong Hội Thánh
thay quyền Chúa Giê-su.
- Sở dĩ có nhiều giáo phái Tin Lành, vì họ không tin quyền giáo huấn Chúa trao riêng
cho Hội Thánh, họ xác tín rằng ai tin vào Chúa Giê-su cũng được Chúa Thánh Thần soi
sáng để hiểu Kinh Thánh và đem ra thực hành, họ đã không quan tâm đến lời xác
tín của thánh Phao-lô : “Thiên thần nào từ trời đến giảng Tin Mừng
khác chúng tôi, thì đó là đồ chúc dữ!” (Gl 1,8).
Về
Quyền Giáo Huấn, ta biết Chúa chọn ai và cho ai công bố Lời Chúa là quyền tự do
của Ngài, Chúa đã trao thì không bao giờ rút lại, dù người ấy có điều bất xứng.
Đan cử
- Bà Miriam và ông Aharon thấy ông Mô-sê lấy vợ ngoại người Kush, là gây gương xấu, cho nên họ nói với nhau : “Dễ chừng Thiên Chúa chỉ phán dạy ngang qua
ông Mô-sê hay sao? Người đã không phán dạy ngang qua chúng ta nữa đó ư?” Chúa
liền lên tiếng trách : “Tại sao các ngươi dám nói phạm đến Mô-sê tôi tớ của
Ta”, và khí nộ Thiên Chúa bừng cháy phạt họ : Bà Miriam bị phung hủi như tuyết”
(x Ds 12).
- Ông Phê-rô được Cha trên trời mạc khải riêng cho, và Đức
Giê-su đã đặt ông làm nền tảng xây dựng Hội Thánh. Thế nhưng sau đó ông Phê-rô
bị Đức Giê-su mắng là Satan, vì ông đã khuyên Thầy đừng nộp mạng mình cho kẻ
ác, đó là dấu Chúa không thương (x Mt
16,17-23). Nhưng ông được Đức Giê-su cầu nguyện riêng cho, để ông không mất Đức
Tin, vì ông có nhiệm vụ củng cố Đức Tin cộng đoàn (x Lc 22,31-32), để rồi Ngài
dứt khoát trao sứ mệnh chăm sóc Hội Thánh cho, cụ thể ba lần Ngài tra hỏi ông
về tình yêu đối với Ngài, mỗi lần ông thưa có, thì Ngài lại trao cho ông quyền
chăn dắt đoàn chiên của Ngài (x Ga 21,15t).
Hai chứng từ trên
cho ta xác tín rằng : Chúa đã trao quyền công bố Lời Chúa cho ai, Ngài không
bao giờ rút lại, dù người đó còn bất xứng!
Vậy
muốn được Chúa “đổi phong ba thành gió
thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm bỗng đâu
im tiếng, họ vui sướng vì trời yên biển lặng, và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong
chờ” (Tv 107/106,29-30), thì ta hãy cầu nguyện : “Lạy Chúa xin tỏ cho chúng con thấy tình thương của Chúa, và ban ơn cứu
độ cho chúng con” (Tv 85/84,8 :
Đáp ca). Vì “mong đợi Chúa, tôi hết lòng
mong đợi, cậy trông ở Lời Người” (Tv 130/129,5 : Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Với ai yêu mến Thiên Chúa, thì Ngài đồng công cộng tác biến
mọi sự nên tốt đẹp! (Rm 8,28)
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH