BÀI GIẢNG
ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU
Chúa Giêsu không chỉ muốn chọn 12
người Do Thái làm môn đệ của Ngài, mà Ngài còn muốn chọn cả muôn dân. Do đó
Chúa Giêsu đã ra lệnh cho Nhóm Mười Một : “Anh em hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân,
thanh tẩy cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt
28,19).
Nhưng không tất yếu cứ lãnh Bí tích
Thánh Tẩy đương nhiên trở thành môn đệ Chúa Giêsu,mà phải có tâm nghe và thực
hành giáo huấn Hội Thánh dạy (x Mt 28,20). Cụ thể phải để tâm tìm hiểu Lời Chúa
mà Hội Thánh cho đọc trong Thánh Lễ hôm nay, dẫn ta đến những xác tín :
- Tin Chúa biến tội ra ơn.
- Làm tròn bổn phận : Mến
Chúa và Yêu Người.
- Chọn việc tốt nhất.
- Chuyên cần hiệp dâng Thánh
Lễ
I- TIN CHÚA BIẾN TỘI RA ƠN.
Ai càng ý thức mình là kẻ
tội lỗi mà sám hối xin Chúa Giêsu thương xót và được theo Ngài, thì càng làm
vinh danh Chúa. Vì thế Đức Giêsu nói : "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."
(Mt 9,13b: Tin Mừng).
Chúa không kêu gọi người công chính là Ngài không kêu gọi
kẻ tự mãn vào việc tuân giữ Luật Môsê mà khinh dể người khác (x Lc 18,9), đến
nỗi trở nên những kẻ quyết liệt chống đối Đức Giêsu, và không muốn cho ai theo
Ngài (x Ga 7,47-48).
Trước mặt Thiên Chúa “không
ai là người công chính, dẫu một người cũng không, chẳng ai có lương tri, chẳng
ai kiếm tìm Thiên Chúa, dù đã làm những gì Luật dạy, Luật chẳng qua chỉ làm cho
người ta ý thức về tội” (Rm 3,10-11.20). Vì “Luật lập ra cho loài người vô luân, chứ không phải cho người được công
chính trong Chúa Kitô” (1Tm 1,9). Mà “ai
đã được công chính trong Chúa Kitô, thì phải là người ngao ngán cực phiền trước
thói phóng đãng của lũ người phi pháp” (2 Pr 2,7).
“Vi trùng bất lương” xâm nhập linh hồn mọi người, duy chỉ
có “Lương Y Giêsu” mới chữa lành (x Cv 4,12). Bởi thế khi có kẻ chê trách Đức
Giêsu dùng bữa với bọn thu thế và quân tội lỗi, thì Ngài nói : “Người
khỏe không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9,12 : Tin Mừng).
Sở dĩ người Do Thái kết án những người thu thuế là kẻ có
tội vì ba lý do :
1.Tội lạm dụng quyền để làm
giàu :
Người thu thuế dễ lạm dụng quyền đế quốc Roma cho : Roma không trực tiếp đứng
ra thu thuế người Do Thái, mà trao cho người địa phương thầu. Người thu thuế
chỉ cần nộp đủ số tiền thuế Roma đã quy định, nên họ dễ dựa vào kẽ hở của Luật
để làm giàu bằng cách thu cao hơn mức thuế đã ấn định. Chính ông Giakêu cũng đã
thú nhận điều này với Đức Giêsu, khi ông xin đền gấp bốn đối với những ai ông
đã làm thiệt hại (x Lc 19,8b).
2.Tội phản quốc : Lấy thuế của dân tộc nộp
cho ngoại xâm là củng cố quyền lực Roma đang đặt ách thống trị đè nặng trên
người đồng chủng ! Đó là hành động “rước
voi về giày mồ”.
3.Tội phản Đạo : Vì người Do Thái chỉ tin
cậy vào Chúa mà cầu nguyện : “Người ta
cậy vào chiến xa pháo mã, còn dân chúng tôi chỉ trông chờ vào danh Chúa mà thôi”
(Tv 20/19,8). Như thế, người lấy thuế của người đồng chủng mà nộp cho ngoại
bang, là một cách trông cậy vào thế lực của kẻ ngoại hơn là trông cậy vào Thiên
Chúa. Nói cách khác : đặt uy danh Chúa dưới quyền lực của đế quốc Roma !
Nhưng ai biết ăn năn sám hối tội mình, thì đều đáng được
Đức Giêsu kêu gọi để nên chứng nhân cho Ngài, một khi họ cảm nghiệm được “ở đâu tội lỗi nhiều, ở đó ân sủng Chúa ban
càng chan chứa” (Rm 5,20).
Trong lịch sử Cứu Độ, người nào biết khiêm tốn thú nhận
tội lỗi mình trước mặt Chúa, thì được Chúa đặt làm việc lớn. Đan cử :
- Trong số 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, chỉ ông Phêrô thú nhận với
Thầy: “Xin Thầy xa con, vì con là kẻ có
tội” (Lc 5,8), nên ông đã được Chúa đặt làm Giáo hoàng tiên khởi (x Mt
16,18), và trước khi Ngài trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho ông, Ngài đã khéo
léo, tế nhị qua ba lần hỏi : “Con có yêu
Thầy không ?” Làm ông gợi nhớ đến ba lần chối Thầy, nên khiêm tốn nói: “Thưa Thầy,Thầy thông hay mọi sự,Thầy biết
con yêu mến Thầy” (x Ga 21,15t).
- Ông Phaolô tự hào trong Chúa (x 1Cr 1,31), nên khoe với giáo
đoàn Corinthô : “Thiết tưởng nào tôi thua
gì những Tông Đồ thượng đẳng” (2Cr 11,5). Ông được Chúa ban cho thành công
không thua kém các Tông Đồ Đức Giêsu đã chọn trước Phục Sinh, chỉ vì ông đã
thành thật khiêm tốn thú nhận tội mình với các giáo đoàn, như ông nói :
· “Chẳng có gì lành cư ngụ trong tôi, sự lành tôi muốn, tôi
không làm, còn sự dữ, tôi không muốn,tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19).
· “Để mạc khải cao siêu khỏi làm tôi quá tự tôn, thì tôi đã
được một cái dằm đâm vào thân xác, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt
tôi. Về điều ấy, đã ba lần, tôi nài xin Chúa cho nó rời khỏi tôi. Nhưng Ngài đã
phán bảo tôi : Ơn Ta đủ cho ngươi. Vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên
thành” (2Cr 12,7-9).
Vậy trong loài người không
ai được thất vọng về sự yếu đuối của mình, mà tự ti mặc cảm là kẻ tội lỗi bất
xứng, không đáng được Chúa kêu gọi làm Tông Đồ. Bởi vì cả đến tên trộm lành,
suốt cuộc đời hắn chỉ làm khổ người ta. Khi bị đóng đinh trên thập giá hắn biết
sám hối tội, xin Đức Giêsu thương xót, và xin theo Ngài, anh đã trở nên mẫu
người động viên tất cả những kẻ tội lỗi biết sám hối tội mình mà đến với Chúa
Giêsu sẽ được ơn hơn lòng mong ước (x Lc 23,43 ; Ep 3,20).
II- LÀM TRÒN BỔN PHẬN, MẾN
CHÚA YÊU NGƯỜI.
1. Mến Chúa, vì Ngài nói : “Ta sẽ gieo đói khát trên xứ này, không phải đói bánh ăn, cũng không
phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe Lời Chúa” (Am 8,11). Như thế
chỉ có Chúa mới làm cho con người biết đói khát nghe Lời Ngài, vì bản năng tự
nhiên của loài người rất giống các sinh vật, chỉ tìm của vật chất để nuôi thân,
chẳng mấy ai để tâm nghe và thực hành Lời Chúa dạy : “Hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước và sự công chính của Ngài, còn các
điều khác Ngài sẽ ban thêm cho” (Mt 6,33). Phải biết rằng : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng
còn nhờ Lời Chúa dưỡng nuôi” (Mt 4,4 : ĐC năm chẵn). Do đó, biết đói khát
Lời Chúa là một ơn nhưng không Chúa ban. Tuy nhiên chỉ có những người khao khát
sống đời công chính, khao khát sống đời hoàn thiện (x Tv 119/118,20) mới đón
nhận được ơn này. Thế thì ông Matthêu đang ngồi thu thuế, Đức Giêsu gọi : “Hãy theo tôi”, ông đáp ứng lời mời gọi
ngay, bỏ việc thu thuế đi theo Ngài. Điều này Matthêu đã minh chứng ông hằng
khao khát sống hoàn thiện.
2. Yêu người, phải sống có nhân bản : Chúa dùng miệng ngôn sứ Amos lên tiếng đòi mọi
người phải tôn trọng người anh em, nhất là quan tâm, đáp ứng nhu cầu người bần
cùng, người thấp cổ bé miệng ; chứ đừng chỉ mong ngày Lễ nghỉ theo Luật bao giờ
qua, để bán thóc mọt, lại còn làm cho đấu đong nhỏ lại, chế quả cân thêm nặng
để đánh lừa thiên hạ, miễn sao vơ vét được nhiều tiền. Khi đã dư tiền của thì mua
đứa nô lệ, đem đôi dép đổi lấy kẻ cùng khổ ! Sống ác như thế là tham gia vào
việc giết Con Thiên Chúa,như Lời sấm ngôn báo trước : “Mặt trời lặn giữa trưa, khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang
sáng” (Am 8,4-9 : Bài đọc năm chẵn). Điều ấy đã xảy ra lúc Đức Giêsu bị
treo trên thập giá (x Mt 27,45).
III- CHỌN VIỆC TỐT NHẤT.
Việc tốt phải hội đủ ba yếu tố :
- Bản chất việc đó tốt.
- Thuộc bổn phận.
- Hoàn cảnh bắt buộc phải làm
trước.
Nhưng việc tốt cũng có ba
cấp độ :
* Việc tốt thôi : Nếu ông Lêvi thu thuế đúng Luật quy định, để góp
phần điều hành sinh hoạt xã hội.
* Việc tốt hơn : Ông Lêvi đã tổ chức bữa tiệc lớn để quy tụ những
người tội lỗi đến đồng bàn với Đức Giêsu (x Mt 9,10), là dấu họ được giao hòa
với Thiên Chúa.
* Việc tốt nhất : Tốt nhất là được lợi cả hồn lẫn xác, dù có mất đời
này nhưng đời sau Chúa lại ban trọng hậu. Điều tốt nhất không phải chỉ riêng
cho mình, mà còn cho cả đồng loại. Đan cử ông Lêvi đã bỏ nghề thu thuế, đi theo
Đức Giêsu để thu góp Lời Chúa và loan báo cho muôn dân. Nếu ông nán lại trong
nghề thu thuế, thì ông chỉ phục vụ gia đình và xã hội trong một thời gian nhất
định, với một số người nhất định. Nhưng nhờ ông biết thu góp Lời Chúa để nuôi
sống muôn vàn người qua mọi thế hệ cho đến ngày cánh chung. Trước Công Đồng Vat.II, Hội Thánh dùng Tin Mừng của
ông Matthêu nhiều nhất. Đó cũng là lý do Đức Giêsu khen cô Maria chăm chú đón
nhận Lời là cô đã chọn phần tốt nhất, và không bị ai giựt mất, hơn cô Matta chỉ
lo đến bữa ăn phục vụ khách! (x Lc 10,38-42).
Là người Tông Đồ giỏi của Đức Kitô, phải làm cả ba việc
tốt trên, tùy lúc, tùy hoàn cảnh cho phép. Nhưng đừng bao giờ dừng lại việc tốt
thôi hay tốt hơn mà bỏ việc tốt nhất, nên trong mọi hoàn cảnh cuộc sống phải
luôn chu toàn nhiệm vụ ngôn sứ đã được Chúa trao ban trong ngày lãnh Bí tích
Thánh Tẩy. Vì thế giáo huấn Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35
nhắc nhở cho các con cái mình : “Giáo dân
có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới, cả
lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế” .
IV- CHUYÊN CẦN HIỆP DÂNG
THÁNH LỄ.
Hình ảnh bữa tiệc Đức Giêsu ngồi chung với những người
tội lỗi tại nhà ông Lêvi (x Mt 9,10 : Tin Mừng), trở thành dấu chỉ bữa tiệc Thánh Thể Chúa mời gọi
mọi người tham dự.
Ta biết ai được dự tiệc với Chúa Giêsu là dấu chỉ người
đó được ơn giải phóng, được giao hòa với Thiên Chúa, được cứu độ. Chân lý này
đã được diễn tả qua hình ảnh ông Giơhôgiakhin, vua Giuđa thất trận, bị vua Babylon tống ngục. Trong
ngày vua Babylon đăng quang, ông Giơhôgiakhin
được ân xá ra khỏi tù, và được vua Babylon tiếp
thân thiện, lại ban cho ông Giơhôgiakhin ngồi trên một ngai cao hơn các vua có
mặt tại Babylon.
Vua Babylon cho ông Giơhôgiakhin thay áo tù và suốt đời ngày ngày được đồng bàn
với vua Babylon,
cùng với cấp dưỡng liên tục (x 2V 25,27-30).
Thực vậy, Mạc Khải cho chúng ta biết ơn cứu độ được Chúa
ban trọn vẹn cho con người, luôn được diễn tả bằng bữa tiệc :
- Ngôn sứ Isaia đã báo trước về ngày Thiên Chúa thực hiện
chương trình cứu độ loài người : Ngài dọn tiệc thiết đãi muôn dân, ai dự tiệc
này không còn tang chế khóc lóc, ngày ấy người ta sẽ nói : “Đây là Thiên Chúa chúng ta, chính Người là
Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu
độ”(x Is 5,6t).
- Ông Lêvi dọn tiệc để quy tụ những người tội lỗi đến đồng bàn
với Đức Giêsu, là dấu chỉ họ được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (x Lc
14,15-24).
- Người đầy tớ trung tín làm trọn nhiệm vụ chủ trao phó, khi
chủ về, ông đặt đầy tớ vào bàn tiệc để hầu hạ (x Lc 12,35-37).
- Đứa con hoang đường trở về cũng như người con cả muốn được
hưởng lời cha hứa “mọi sự của cha đều là
của con”, thì phải dự tiệc cha đã dọn (x Lc 15,11t).
- Năm cô trinh nữ khôn ngoan được chàng rể dìu vào tiệc cưới
(x Mt 25,1-13)
- Ngày cánh chung, tất cả những người công chính : người đã thương
giúp đồng loại, trở thành những “kẻ bé nhỏ” – người thuộc về Hội Thánh Chúa
Kitô - thì tất cả được vào dự tiệc hoan lạc trong Nước Thiên Chúa (x Mt 25,31-46).
Ai được dự tiệc trong Nước
Thiên Chúa, người ấy được Chúa Giêsu ở cùng, cuộc đời họ cảm thấy vơi nhẹ nỗi
khổ đau, vì Đức Giêsu đã nói : “Tất cả
những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi
bồi dưỡng” (Mt 11,28 : Tung Hô Tin Mừng).
Chúa Giêsu nâng đỡ bổ sức
cho những ai đến với Ngài khác nào chồng nâng đỡ vợ. Thực vậy, bất cứ ai đã
được lãnh Bí tích Thánh Tẩy, đều được trở nên Hiền Thê của Chúa Giêsu, như
thánh Phaolô nói : “Tôi đã đính hôn anh
em với một người độc nhất là Đức Giêsu Kitô, để tiến dâng anh em cho Người như
một trinh nữ thanh khiết” (2Cr 11,2). Chỉ khi nào là Hiền Thê của Đức Kitô,
thì người đó mới được thừa hưởng phúc lành của Chúa đã hứa cho tổ phụ Abraham :
“Ta sẽ làm cho dòng giống ngươi nên đông
như sao trên trời, nhiều như cát bãi biển, và dòng giống ngươi sẽ chiếm cửa
thành quân địch, vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta” (St 22,17-18 : Bản dịch
NTT).
Vì tổ phụ Abraham đã tin
vào Lời Chúa hứa, nên sau khi Sara, vợ ông qua đời, ông đã tậu một mảnh đất tại
cánh đồng Marpêlla, tại Canaan, là đất của con cái ông Khết (vì phần mộ của tổ
tiên vốn là gia sản quan trọng cho con cháu được an nghỉ - x 1V 13,22), rồi ông
Abraham buộc ông lão là người quản lý tài sản phải thề tìm cho được cô gái
trong dòng họ để giới thiệu cho Isaac, con ông, cưới làm vợ, hầu phúc lành của
Chúa đã hứa cho dòng dõi Abraham, không để cho dân ngoại được hưởng, Ông lão đã
khấn với Chúa xin cho một dấu chỉ cô nào có lòng thương người. Quả nhiên, khi
ông gặp các cô gái trong thành ra giếng kín nước, ông cất lời xin cô Rêbecca :
“Vui lòng cho tôi hớp nước đỡ khát”,
và được cô Rêbecca cho ông lão uống đã khát, lại còn múc nước cho đoàn súc vật
của ông lão uống nữa. Ông lão nhận ra đó là dấu Chúa bảo ông “cô Rêbecca sẽ là
vợ của Isaac”, nên ông ngỏ ý với cha mẹ cô, xin dẫn cô về cho Isaac ! (x St
23,1-4.19 ; 24,1-8.62-67 : Bài đọc năm lẻ).
Vợ chồng Isaac và Rêbecca
sinh Giacob, Giacob sinh 12 người con là tiền trưng cho 12 môn đệ của Đức
Giêsu, để chính Nhóm này, Đức Giêsu xây dựng Hội Thánh của Ngài, mà những ai đã
thuộc về Hội Thánh Chúa Kitô, đều phải học tinh thần sống Đạo của ông Lêvi (Matthêu)
mới xứng đáng là Hiền Thê của Chúa Kitô, đi loan báo Tin Mừng sinh con cho
Thiên Chúa, để được lãnh phúc lành Chúa đã hứa cho tổ phụ Abraham, mà Chúa
Giêsu chính là phúc lành Chúa Cha ban tặng cho những người Ngài tuyển chọn, như
Chúa đã chọn ông Matthêu.
Vậy “hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ” (Tv 106/105,1a : ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
Giáo dân có thể và
phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới, cả lúc họ bận
tâm lo lắng việc trần thế (Hiến Chế Hội Thánh số 35).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE ĐINH QUANG THỊNH