BÀI GIẢNG
ĐẤNG GIẢI PHÓNG ĐÍCH THỰC !
Chúa nhật
cuối cùng của Mùa Vọng này, tâm hồn người tín hữu nào cũng nao nức hướng về
niềm vui ơn cứu độ, mà Thiên Chúa bắt đầu thực hiện lời hứa từ ngày nguyên tổ
loài người phạm Luật, như lời Ngài đe phạt con rắn : “Miêu duệ người phụ nữ sẽ đạp nát đầu mi,còn mi rình táp gót chân Ngài
mà không nổi” (St 3,15 – Bản văn của NTT). Phụng Vụ hôm nay khai triển cho
chúng ta gía trị Lời Chúa hứa được thực hiện giúp chúng ta làm tròn sứ mệnh
loan báo Tin Mừng cứu độ đến với mọi người thành tâm.
1- CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI ĐỂ
GIẢI PHÓNG TA KHỎI ÁCH LỀ LUẬT.
Để
nhận ra chân lý này chúng ta phải tìm hiểu lý do :
Tại sao chỉ có tác gỉa Mátthêu ghi lại cuộc Truyền
Tin cho ông Giuse ?
Có
hai lý do chính mà thánh sử Matthêu đã ghi lại cuộc Truyền Tin này :
a-
Để
Đức Giêsu vừa là con loài người, vừa là Con Thiên Chúa. Vì 17 câu đầu của Tin Mừng Mattheu
viết về gia phả của Đức Giêsu : “Đức Kitô
Giêsu là con vua Đavid, con Abraham, Abra-ham sinh Isaác, Isaác sinh Giacob,
Giacob sinh Giuđa, … sinh Giuse chồng của Đức Maria, bà là Mẹ Đức Giêsu, cũng
gọi là Đấng Kitô” (x Mt 1,1-17).
Nếu
ông Mátthêu chỉ viết như thế thì độc gỉa hiểu Đức Giêsu là con của ông Giuse và
bà Maria, người con theo nghĩa xác thịt ! Do đó trình thuật Truyền Tin cho ông
Giuse có ý xác định : Đức Giêsu là con bởi xương thịt của Đức Maria, đồng thời
là Con Thiên Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa qua tác động của Chúa Thánh Thần,
mà Đức Maria sinh Đức Giêsu, chứ không phải do ý muốn của ông Giuse và bà Maria.
Ông Giuse chỉ là cha nuôi và là cha theo pháp luật, để Con Thiên Chúa sinh ra
thuộc dòng tộc vua Đavid. Lý do “ông
Giuse là con cháu Đavid” (Mt 1,20 : Tin Mừng). Vì thế mà thánh Tông Đồ xác
quyết : “Chính từ dòng dõi Đavid, Thiên
Chúa chiếu theo lời hứa đã dẫn đến cho Israel Vị Cứu Tinh Giêsu” (Cv
12,23).
b-
Để
Đấng Cứu Thế sinh ra cho loài người được thoát án phạt của Lề Luật. Thực vậy, cuộc Truyền Tin thứ
nhất của sứ thần Gabriel, làm cho Con Thiên Chúa sinh trong lòng Đức Maria, nếu
sứ thần Gabriel không Truyền Tin cho ông Giuse, thì Con Thiên Chúa không thể
sinh vào đời cách tốt đẹp được ! Vì Đức Maria có thai không do ông Giuse là chồng
chính thức, thì theo Luật Môsê, người ta sẽ ném đá bà bầu Maria. Nhưng ông Giuse
được gọi là đấng công chính, có nghĩa là ông đã để cho Thiên Chúa đoạt lấy
Maria, người yêu của ông, và như vậy Maria không còn thuộc quyền của ông nữa, bây
giờ ông đã sẵn sàng hiến dâng vợ mình cho Thiên Chúa, còn hơn ông Abel xưa đã
tiến dâng lên Chúa con chiên đầu lòng qúy nhất trong đàn, tiên báo Chúa Giêsu
là Của Lễ Con Chiên Thiên Chúa, mới được Cha trên trời ưng nhận, và ta lại biết
ngôn sứ Nathan gọi người vợ là con chiên của chồng (x 2Sm 12). Đó là lý do mà
tác gỉa Tin Mừng Matthêu gọi ông Giuse và ông Abel là đấng công chính ! (x Mt
1,19 = Mt 23,35). Bởi lẽ Giuse và Abel đều là hình bóng Tư Tế Giêsu trong Hy
Lễ mới (x St 4,4 = Ga 1,29).
Vậy
thái độ lúng túng của ông Giuse trước bào thai của Đức Maria đã diễn tả sự bất
lực của Lề Luật.
*
Nếu ông Giuse không biết Thai Nhi do Chúa Thánh Thần, thì theo Luật ông phải tố
cáo Maria đã ngoại tình nên phải ly hôn (x Dnl 22,13-27). Nhưng ông không dám,
vì biết Maria là người nhân đức.
*
Nếu ông biết Thai Nhi đó là do Chúa Thánh Thần, cứ theo Luật Môsê, đương nhiên
ông là cha Đấng Cứu Thế, nhiệm vụ cao cả này, khi chưa được trao trách nhiệm,
làm sao ông dám nhận?
*
Nếu ông âm thầm trốn đi, thì đó là cách gián tiếp tố cáo Maria ngoại tình, làm
sao lương tâm ông cho phép. Vì hậu quả tai hại khó lường, chắc chắn sẽ xảy đến
cho cả hai Mẹ-Con!
Rõ
ràng ông Giuse hành động cách nào cũng là có hại cho người vợ hiền và Thai Nhi vô
tội! Qủa thật, Luật bất lực giải quyết cho lương tâm của ông ! Bởi thế thánh
Phaolô qủa quyết: “Luật giam chúng ta
trong tội !” (Gl 3,22). Trong lúc còn đang bối rối như thế thì chính tiếng
Chúa nói qua lương tâm ông (được mộng báo), soi sáng cho ông phải quyết định
đón Maria về, để Con Thiên Chúa thuộc dòng Đaivd theo pháp luật, vì “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con
một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật,để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu
chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.” (Gl 4,4) Nghĩa là nhờ ông Giuse theo
lệnh Chúa truyền đón Maria về, để Maria không bị Luật lên án, qua đó Đức Giêsu,
Con Đức Maria đón nhận ta, để ta khỏi bị án của Lề Luật ! (x Rm 8,1).
Nhờ
lòng yêu thương đặc biệt của Thiên Chúa, mà Người đã giải phóng cho Mẹ Maria và
Hài Nhi thoát án phạt của Lề Luật, trở thành lý do Thiên Chúa muốn giải phóng
cho cả loài người. Điều này đã được tiên báo qua ngôn sứ Isaia (x Is 7,10-14 : Bài
đọc I) : Tình thương của Thiên Chúa đã giải phóng cho dân Do Thái đang trong
hoàn cảnh tuyệt vọng, dù vua Akhaz không xin Chúa một dấu chỉ để ra tay cứu dân
:
Vào
năm -733, Teglat Phalasar làm vua đế quốc Assur, muốn thôn tính các nước nhỏ
xung quanh làm chư hầu. Nghe tin này, hai nước Syria và Israel rủ Akhaz, vua
Giuđa liên minh chống lại đế quốc Assur, nhưng vua Akhaz không đồng ý với hai
nước láng giềng, lại đi cầu cứu với Assur, và tự nhận mình là con của Teglat
Phalasar, hòng Israel thoát ách nô lệ Assur. Do đó, Syria
và Israel
kéo quân chinh phạt Akhaz, vua Assur biết thế cũng không bênh đỡ ! Thấy vậy,
vua Akhaz liền lấy châu báu trong đền thờ Giêrusalem dâng vua Assur để cầu viện,
và còn tuyên xưng vua Assur là cha ! Vua Akhaz lại còn thiêu sống con trai mình để tế cho
thần Đama, ông còn lập tế đàn thờ thần ngoại ngay trong đền thờ Giêrusalem!
Cách sống của vua Akhaz như thế, quả thật là đắc tội với Chúa! Do đó Thiên Chúa
sai ngôn sứ đến quở trách ông:
Ä “Làm phiền
lòng người ta còn cho là qúa ít sao?”(x Is 7,13a).Tức là ông không chịu liên minh với Syria và Israel để chống lại Assur.
Ä “Lại còn làm phiền lòng Thiên Chúa”(x Is 7,13b). Ông đã tế con cho
thần ngoại giáo, xưng mình là con của vua Teglat, tự hạ thấp dân tộc mình, vì
dân Do Thái vẫn tự hào là con Thiên Chúa ! (x Tv 2,7) Vua Akhaz còn lấy đồ
phụng tự dâng cho vua ngoại giáo là ngạo nghễ với Thiên Chúa, trông cậy vào thế
lực trần gian, nghịch lại với niềm tin dân Do Thái : chỉ cậy dựa vào danh Giavê
mà thôi ! (x Tv 20/19,8).
Dù
tội lỗi của vua Akhaz nặng đến thế, Thiên Chúa vẫn sai ngôn sứ đến động viên
ông cầu nguyện xin Chúa cho ông một dấu, vì chỉ có Chúa mới là Đấng cứu triều
đại của ông. Nhưng ông nói không dám xin Chúa, hoặc là vì ông không đủ lòng
trông cậy, hoặc ông mặc cảm vì tội lỗi, hoặc là ông không hiểu được lòng khoan
dung của Thiên Chúa. Thế mà Chúa vẫn thương, ban cho một dấu : “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ
con trai, và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7,14). Vì ai có Emmanuel – Thiên Chúa
ở cùng :
ò Ông Môsê được Chúa ở cùng, nên chỉ
mình ông đã tỏ uy quyền, đánh bại đế quốc Ai Cập, đưa dân Do Thái thoát nô lệ,
để tiến về miền đất Chúa hứa chảy sữa và mật (x Xh 3,8-12).
ò Vua Saolê chúc cho Đaviad “được
Chúa ở cùng”, thế là Đavid ra nghênh chiến với Gôlyat, chỉ với một viên sỏi,ông
giương nỏ lên đã hạ gục Gôlyat, tướng quân Philitinh, giải phóng cho dân tộc (x
1Sm 17,33).
ò Chúa Giêsu Phục Sinh hứa ở với các
Tông Đồ cho đến tận thế, nên không có sự dữ nào thắng được các ông, thậm chí dù
có uống nhằm thuốc độc, hay bị rắn cắn cũng không hề hấn chi ! (x Mc 16,14-20)
; và các ông còn có khả năng đi khắp thế gian tập họp môn đệ cho Ngài bằng cách
ban Thánh Tẩy và dạy họ mọi điều Thầy đã truyền (x Mt 28,19-20).
ò Sứ thần Gabriel nói với Đức Maria
: “Chúa ở cùng Bà”, thế là Mẹ mang
thai Con Thiên Chúa, dù không ăn ở với người nam nào, và Maria một cô gái miền
quê Nadaret đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, trao ban Đấng Cứu Độ cho loài người (x
Lc 1,28t).
Như vậy, Thiên Chúa cứu độ chúng
ta không phải vì ta xứng đáng, mà vì danh dự của Chúa (x Tv 143/142,11). Thế
nên ngôn sứ Isaia như muốn dọa Thiên Chúa: “Chúa
mà để con trong âm phủ, thì lấy ai ca tụng Chúa?” (Is 38,18). Và khi Thiên
Chúa chính thức ban ơn cứu độ cho muôn dân, Ngài còn ban ơn cho ta vì Đức Tin của
Đức Maria: “Xin Chúa làm cho con theo lời
sứ thần nói.” (Lc 1,38). Rõ ràng Đức Tin của Bà hoàng Maria hơn hẳn ông
hoàng Akhaz xưa ! Vì Đức Maria tuyệt đối tin vào quyền năng, tình thương của
Chúa, nên Ngài làm cho Mẹ nên ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói : “Này đây một thiếu nữ mang thai, sinh hạ con
trai, và đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14b : Bài đọc I).
Thực
ra, lời ngôn sứ Isaia (7,14) theo bản văn Hipri, người nữ ấy là “Ălmah” chỉ có
nghĩa là cô vợ trẻ hay một thiếu nữ (không xác định còn trinh) ; nhưng Bản 70,
bằng tiếng Hy Lạp và bản Vulgata (bản Phổ Thông) bằng tiếng La Tinh, thì lại
xác định người nữ ấy là “Parthenos” (trinh nữ).
Truyền
thống Do Thái thời ấy không mong Đấng Cứu Thế sinh ra bởi một trinh nữ. Đối với
họ, “trinh” là một sự tủi nhục, như con gái ông Giéptê than khóc suốt hai tháng
vì cô còn là trinh nữ, không xứng đáng để làm hiến vật tạ ơn Thiên Chúa đã giúp
cha cô thắng quân thù ! (x Tp 11, 29-40)
Sự
trinh khiết của Đức Maria vừa để xác định Mẹ sinh Con bởi quyền năng Chúa Thánh
Thần, vì Con Mẹ là Con Một Chúa Cha ; vừa trở nên dấu chỉ Hội Thánh Chúa Kitô
như những cô trinh nữ khôn ngoan (x Mt 25,1-13), diễn tả Hội Thánh không liên
hệ xác thịt với ai mà vẫn sinh các Ki-tô hữu là chi thể trong Thân Mình Mầu
Nhiệm Chúa Kitô.
2- CHÚA MUỐN TA CỘNG TÁC.
Ngôn
sứ Isaia nói về tên của Đấng Cứu Thế là Emmanuel (x Is 7,14), nhưng tại sao
thiên thần lại bảo ông Giuse đặt tên cho con trẻ là Giêsu ?
Thực
ra,danh hiệu “Emmanuel”(viết tắt là Noen),nghĩa là“Chúa ở cùng loài người” báo trước về sự Phục Sinh của Đấng
Cứu Thế. Vì chỉ khi Đức Giêsu sống lại, Ngài mới nói với các Tông Đồ : “Thầy ở cùng
các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b). Như vậy, tác gỉa Mátthêu có ý nói: Con Thiên
Chúa sinh ra được an toàn là nhờ ông Giuse đã tùng phục ý Chúa, nên ông mau mắn
đón Maria về, ông đã làm cho Con Thiên
Chúa ở cùng loài người,
để cứu chuộc con người,đúng như ý nghĩa tên Giêsu mà thiên thần báo cho Đức
Maria và ông Giuse đặt cho Con Trẻ (x Lc 1, 31 ; Mt 1,21) [Giêsu phiên âm bởi
tiếng Hy-Bá là Yehôshua, hoặc Yéshua có nghĩa Giavê là sự cứu độ], và Ngài chỉ
thực sự cứu độ khi Ngài từ cõi chết sống lại, để mọi ngày Ngài muốn ở cùng
những ai sống trong Hội Thánh, đúng như lời thánh sử Mátthêu viết câu mở đầu
Tin Mừng: “Nữ trinh sẽ thụ thai và sinh
Con,và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, được dịch là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23 :
Tung Hô Tin Mừng). Để rồi cuối Tin Mừng, ông ghi Lời Chúa hứa với các môn đệ: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận
thế” (x Mt 28,20b).
Dù
Thiên Chúa thương loài người đến thế, và dù Ngài tỏ quyền năng cứu độ, vì danh
dự Ngài, vì Đức Maria, Mẹ Ngài, nhưng Chúa vẫn muốn mời gọi ta cộng tác theo
mẫu gương thánh Giuse : ba lần ông mau mắn chỗi dậy làm theo Lời Chúa để Con
Thiên Chúa không bị sự ác tấn công, hầu đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Thực
vậy.
a. Mt 1,24 : Được mộng báo, ông Giuse đã mau
mắn chỗi dậy rước Maria về nhà, để Mẹ Con khỏi
bị ném đá, khỏi chết nhục vì Luật !
b. Mt 2,13 : Được mộng báo, ban đêm ông Giuse
chỗi dậy đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn qua Ai Cập, thoát khỏi
bàn tay độc ác của vua Hêrôđê.
c. Mt 2,20 : Được mộng báo, ông Giuse lại chỗi dậy đưa Mẹ Con Maria trở về quê nhà, để thực hiện sứ mệnh cứu
dân như ông Môsê.
Tông Đồ Phaolô nhận thức được
nguồn ơn cứu độ Chúa đã thực hiện qua Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Một Ngài, và
đã nhận ra ơn gọi của mình được Chúa tách riêng để chuyên lo việc loan báo Tin
Mừng Nước Thiên Chúa. Nhưng Chúa không chỉ trao riêng cho ông Phaolô, mà Ngài còn
muốn trao cho cả chúng ta nữa, những kẻ đã được hiệu triệu theo Chúa Kitô để
giảng truyền sự vâng phục Đức Tin cho mọi dân tộc (x Rm 1,1-7 : Bài đọc II). Vì
Emmanuel không chỉ ứng nghiệm nơi Thánh Gia Thất, mà còn phải được ứng nghiệm
nơi tâm hồn mọi người. Ơn này giúp chúng ta chiến thắng sự dữ đã được tiên báo
qua hình ảnh tấm lông chiên của ông Ghêđêôn :
Ông Ghêđêôn khi làm thủ lãnh dân
Do Thái, đang bị áp lực do quân Mêđian. Ông lo lắng không biết có nên xuất
chinh đánh Mêđian hay xin hàng? Ông đã cầu nguyện xin Chúa cho ông một dấu: Nếu
tấm lông chiên đặt ngoài sân,qua một đêm mà tấm lông chiên đẫm sương, còn chung
quanh đất khô ráo, thì đó là dấu Chúa ủng hộ ông xuất quân. Qủa nhiên, sáng hôm
sau, ông vắt được cả tô nước từ tấm lông chiên, đất xung quanh vẫn khô ráo! Đó
là dấu chỉ lần thứ nhất Thiên Chúa chiếm đoạt Maria – trong cuộc truyền tin –
để Maria trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn dân.
Hôm sau, ông lại đặt tấm lông
chiên ngoài sân, và cầu xin : Nếu Chúa ủng hộ ông xuất binh, thì cho tấm lông
chiên khô ráo, còn đất chung quanh thì ướt đẫm. Qủa đúng như lời ông xin. Thế
là ông hạ lệnh xuất quân chinh phạt Mêđian trong chiến thắng lẫy lừng ! (x Tp
6,36-40) Đó là dấu chỉ lần thứ hai, Thiên Chúa chiếm đoạt ông Giuse – trong
cuộc truyền tin cho ông – để ông Giuse làm cho mọi người nhận biết Lời Đức
Giêsu cứu độ muôn dân. Thực vậy, từ khi Đức Giêsu bắt đầu giảng ở đền thờ
Giêrusalem (Hội Thánh) lúc lên 12 tuổi, thì không còn ai biết đến ông Giuse
nữa, vì ông đã hoàn tất nhiệm vụ của mình ! (x Lc 2,41t)
Vì thế mùa Vọng nào trong các Giáo
Đường cũng vang lên tiếng ca : “Trời cao
hãy đổ sương xuống, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính” (x Is 45,8) trong
niềm xác tín:
- Sương
trời là Ngôi Hai.
- Tấm
lông chiên là Đức Maria.
- Đất
là thánh Giuse và mọi người trong Hội Thánh.
Vậy Đấng Emmanuel đã ở cùng Đức
Maria (sương đẫm lông chiên), rồi ở cùng với thánh Giuse (sương xuống đẫm trên
đất) thì chưa đủ bảo đảm chắc chắn ơn cứu độ cho ta, mà Đấng Emmanuel còn phải
ở với tâm hồn mỗi người (đất đẫm sương trời), đặc biệt lúc ta rước Lễ mới bảo
đảm ơn cứu độ cho người được Chúa thương ! Để “Chúa sẽ ngự vào, chính Người là Đức Vua vinh hiển” (Tv 24/23,7c.10b
: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Trời cao hãy đổ sương xuống, mây hãy đổ mưa, mưa đức
công chính! (Is 45,8).
http://phaolomoi.net
Lm Giuse Đinh Quang Thịnh