BÀI GIẢNG
SỨ MỆNH NGÔN SỨ CỦA TÔNG ĐỒ ĐỨC GIÊSU
Dựa vào các Bài đọc trong Thánh Lễ
hôm nay, người Tông Đồ của Đức Giê-su phải xác tín và sống năm điểm giáo lý sau
:
-
Làm
Tông Đồ là cộng tác với Chúa Giê-su Phục Sinh, để làm hoàn hảo công trình Chúa
sáng tạo.
-
Ai
có Chúa Giê-su thì sống, kẻ không có Ngài là chết.
-
Chúa
Giê-su Phục Sinh thông chia chiến thắng cho các Tông Đồ.
-
Chúa
Giê-su về Trời nhằm yểm trợ cho hoạt động Tông Đồ của các môn đệ đạt thành
công.
-
Sự
khẩn thiết phải chu toàn sứ mệnh ngôn sứ.
I. LÀM TÔNG ĐỒ LÀ CỘNG
TÁC VỚI CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH, ĐỂ LÀM HOÀN HẢO CÔNG TRÌNH CHÚA SÁNG TẠO.
Ơn gọi làm Tông Đồ để cộng tác với
Thiên Chúa trong công cuộc sáng tạo đó là ơn thiên triệu Chúa trao cho loài
người ngay từ lúc Ngài tạo dựng Adam, Eva, là nguyên tổ loài người. Chúa nói: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt
đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật
bò trên mặt đất. ĐỨC CHÚA là
Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai."
(St 1,28 ; 2,15)
Chúa đã mạc khải cho thánh Gioan
viết: “Nhờ Ngôi Lời (Chúa Giê-su), vạn
vật được tạo thành,và không có Người,thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga
1,3). Do đó thánh Phao-lô nói: “Trong Đức Ki-tô,Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ
trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện,nhờ tình
thương của Người.Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài
trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,4.10). Và thánh Tông Đồ còn nói: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,là Trưởng
Tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên
trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay
là bậc quyền năng thượng giới,tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và
cho Người.Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi
Người,cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ
máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới
đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,15-16.19-20). Vì thế, Chúa Giê-su ra lệnh cho
các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15: Tin Mừng).
“Giảng cho mọi loài thụ tạo” phải hiểu hai nghĩa :
1/ Trước nhất làm cho con người từ kiếp sinh vật, chẳng hơn
gì loài thú (x 1Cr 15,45 ; Gv 3,18-19) được tái sinh bởi Lời Chúa (x Gc 1,18)
và chính Chúa Giê-su Phục Sinh (x Cv 2,38), để họ trở thành Thiên Chúa nhờ,
với, trong Chúa Giê-su (x Ga 15 ; Ga 6,57 ; Dt 2,11), đến nỗi được đồng hóa với
Ngài (x Gl 2,20). Vì thế thánh Phao-lô
nói: “Phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là
thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và mới được thành sự” (2 Cr 5,17).
2/ Làm cho vạn vật biết phục vụ dân Chúa để cùng ca tụng
Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Muôn loài
thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con
cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn,
nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có
ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng
với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết
rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp
sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng:
chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên
Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa. Quả
thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều
mình trông mong, thì không còn phải là trông mong nữa: vì ai lại trông mong
điều mình đã thấy rồi? Nhưng nếu chúng ta trông mong điều mình chưa thấy, thì
đó là chúng ta bền chí đợi chờ.” (Rm 8,19-25).
Thánh Phao-lô đã tóm
tắt sứ mệnh Tông Đồ bằng câu: “Tất cả đều
thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên
Chúa” (1 Cr 3,22b-23).
II. AI CÓ CHÚA GIÊ-SU
THÌ SỐNG, KẺ KHÔNG CÓ NGÀI LÀ CHẾT (1 Ga 5,12)
Đức Giê-su xác định: “Ai tin và chịu phép
rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án.” (Mc 16,16 :Tin Mừng).
Thực vậy, Đức Giê-su đã
khẳng định với ông Nicodemo: “Thật, tôi
bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước
và Thần Khí” (Ga 3,5).
Vì thế thánh Phê-rô quả
quyết: “Ngoài Đức Giê-su ra, không ai đem
lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho
nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ." (Cv
4,12).
Tuy nhiên “những người vô tình không biết Phúc Âm của
Chúa Giê-su và Hội Thánh Ngài, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới
tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc
mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu độ. Cả những kẻ vô
tình chưa biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời
chính trực, thì Chúa quan phòng không từ chối ban ơn trợ lực cần thiết để họ
được cứu độ” (Hiến Chế Hội Thánh số 16).
III. CHÚA GIÊ-SU PHỤC
SINH THÔNG CHIA CHIẾN THẮNG CHO CÁC TÔNG ĐỒ.
Đức Giê-su hứa cho các Tông Đồ: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có
lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ.
Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ
đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ."
(Mc 16,17-18: Tin Mừng). Những ơn lạ Chúa ban cho các ông như trên phải hiểu
theo hai nghĩa :
1/ Nghĩa mục vụ. Đối với những người còn yếu đuối về Đức Tin, Chúa thường cho họ những
ơn lạ, để họ nhận biết quyền năng Thiên Chúa. Cụ thể như ông Phao-lô, có lần bị
đắm tầu, nên ông bơi vào bờ tìm nơi sưởi
ấm vì quá lạnh, ông thấy những thổ dân đang đốt lửa, ông ôm bó củi tiến lại
quăng vào đống lửa, đột nhiên có con rắn độc quấn lấy tay ông, những thổ dân
thấy thế nắm chắc ông sẽ chết, thế nhưng ông Phao-lô bình tĩnh rũ con rắn vào
lửa, và ông vẫn an toàn! (x Cv 28,3-6).
2/ Nghĩa tín lý. Cũng được hiểu theo hai cách :
a- Người đã được tái sinh làm con
Thiên Chúa, thì phải sống hòa hợp với hết mọi loại người, nhất là sống hòa
thuận với cả kẻ hại mình, để làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về thời
đại Thiên Chúa cứu độ: “Sói sống chung
với chiên, trẻ con thọc tay vào hang rắn
lục” (Is 11,5-9). Đan cử như Phó tế Stephano, vì nhiệt tình với Tin Mừng,
ông bị bao nhiêu kẻ ác ném đá, trong đó có Phao-lô, người này ôm áo động viên
ném đá Stephano. Nhưng Stephano vẫn hiền hòa cầu nguyện cho họ, kết quả “sói
Saulo” trở thành Tông Đồ Phao-lô xuất sắc (x Cv 7-8 ; 2 Cr 11,5).
b- Chúa Giê-su Phục Sinh thông chia
chiến thắng cho các Tông Đồ. Thánh Marco đã bố cục Tin Mừng của ông: Mở đầu Tin
Mừng ông cho thấy Đức Giê-su sống giữa dã thú mà chúng không làm hại Ngài (x Mc
1,13) ; cuối Tin Mừng, Đức Giê-su cho các Tông Đồ chiến thắng sự dữ: cầm rắn
trong tay, uống nhằm thuốc độc cũng không bị hề hấn gì! Ta hãy đối chiếu sự
chiến thắng của Đức Giê-su được ghi ở đầu Tin Mừng Marco với chiến thắng ở cuối
Tin Mừng này :
§ Những đối thủ chất
vấn Đức Giê-su: “Ông lấy quyền đâu mà
tha tội” (x Mc 2,1-12).
|
+ Đức Giê-su đuổi
quân buôn bán ra khỏi Đền Thờ (x Mc 11,27t).
|
§ Tại sao ông Giê-su
lại làm bạn với quân thu thuế và đĩ điếm? (x Mc 2,15t)
|
+ Người ta chất vấn
Đức Giê-su có nên nộp thuế cho hoàng đế không? Ngài trả lời: “Của hoàng đế trả cho hoàng đế, của Thiên
Chúa trả về Thiên Chúa” (x Mc 12,13t).
|
§ Tại sao ông Giê-su
không dạy môn đệ mình ăn chay? (x Mc 2,18t).
|
+ Người ta hỏi Đức
Giê-su: “Ông giải thích thế nào về sự
sống lại cho hợp lý?” ; Ngài trả lời: “Con cái đời này mới cưới vợ lấy chồng, còn những ai sống lại từ cõi
chết, người ta không cưới vợ lấy chồng, họ giống như thiên thần” (x Mc
12,18t).
|
§ Tại sao ông để môn
đệ mở đường đi bằng cách dập lúa người ta? (x Mc 2,23t).
|
+ Người ta chất vấn
Đức Giê-su có giỏi hơn các kinh sư không: “Giới răn nào quan trọng nhất?” Ngài trả lời: “Mến Chúa và Yêu người” (x Mc 12, 28t).
|
§ Người ta phản đối
Đức Giê-su về việc Ngài chữa bệnh vào ngày thứ bảy, ngày cấm không được làm
việc (x Mc 3,1-6).
|
+ Đức Giê-su khóa
miệng những kẻ chống đối Ngài bằng câu hỏi: “Tại sao Đức Ki-tô là con vua Đavid ?” Khi mà chính Đavid được Thánh
Thần ứng cho thì đã nói: “Chúa đã nói cùng Chúa tôi: Hãy ngự bên hữu Ta, chờ
Ta đặt quân thù ngươi dưới chân ngươi”. Chính Đavid gọi Ngài là Chúa, thì bởi
đâu Ngài lại là con của ông?” (x Mc 12, 35-37).
|
Rõ ràng đầu cuộc đời công khai của
Đức Giê-su những kẻ chống đối Ngài đã ngã thua, thì cuối cuộc đời công khai của
Ngài, chúng đều bị Đức Giê-su khóa miệng.
Đó là những chiến thắng của Đức
Giê-su thông chia cho các Tông Đồ qua Lời Ngài nói: “Cầm rắn trong tay, uống chất độc cũng không bị hại !”
IV. CHÚA GIÊ-SU VỀ
TRỜI NHẰM YỂM TRỢ CHO HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ CỦA CÁC MÔN ĐỆ ĐẠT THÀNH
CÔNG.
Thánh sử Marco ghi nhận: “Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu
Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt
động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao
giảng” (Mc 16,19-20: Tin Mừng).
Phép lạ vĩ đại nhất Đức Giê-su cho
các Tông Đồ thể hiện để củng cố lời giảng của các ông, đó là các ông làm những
việc như Ngài đã làm, mà còn làm những việc lớn lao hơn thế (x Ga 14,12). Đan
cử: Đức Giê-su không thiết lập được giáo đoàn nào trong khi đó Tông Đồ Phao-lô
khai sinh được nhiều giáo đoàn như Corintho, Galata, Epheso, Philip,
Colose,Thessalonike. Thành quả các Tông Đồ gặt hái được lớn lao như thế là nhờ
Ngài lên ngự bên hữu Chúa Cha và hằng chuyển cầu cho các ông, đó là lý do Đức
Giê-su ra lệnh cho các ông: “Anh em hãy
đi giảng dạy cho muôn dân, này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
(Mt 28,19-20: Tung Hô Tin Mừng).
Ai được Chúa ở cùng thì :
-
Được
Chúa trao nhiệm vụ vượt khả năng của họ, nhưng họ vẫn thành công. Đan cử như
ông Mô-sê không có khả năng đương đầu với đế quốc Ai Cập, thế mà khi được Chúa
ở cùng, ông đã dẫn dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập (x Xh 3,12) ; hoặc như cô
Maria chỉ là một nữ tỳ ở miền quê Nazareth, nhưng được Chúa ở cùng, Maria đã
sinh Con Thiên Chúa cho đời, và đương nhiên Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa (x Lc
1,28t).
-
Không
sự dữ nào thắng được họ, dù uống thuốc độc hay bị rắn cắn cũng không hề chi! (x
Mc 16,14-20).
-
Được
Chúa ban đầy ân phúc như lời thiên thần nói với Đức Maria: “Vui lên, hỡi Đầy Ơn Phúc, Chúa ở cùng bà”
(Lc 1,28).
V. SỰ KHẨN THIẾT PHẢI CHU TOÀN SỨ MỆNH NGÔN SỨ.
Thánh Phao-lô đã ý thức được tầm
quan trọng việc loan báo Tin Mừng như trên, nên ông vui sướng trong sứ mệnh
ngôn sứ nói: “Khốn thân tôi nếu tôi không
rao giảng Tin Mừng! Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng
công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó.Vậy đâu là
phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công,
chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi” (1 Cr 9,16b-18: Bài đọc).
Thánh Phaxico đang mơ mộng chức
giáo sư Đại học, khi đạt địa vị và có tiền của, ông muốn cưới cô nào làm vợ rất
dễ. Nhưng khi ông được nghe một Linh mục nói với ông câu Lời Chúa: “Nào có ích gì cho người ta khi được lời lãi
tất cả thế gian, mà lại thiệt mất sự sống mình” (Mt 16,26).
Lời ấy làm đảo lộn đời ông: ông từ
bỏ những ước mơ vẫn hằng ấp ủ, ông xin đi tu được làm Linh mục và lên đường
truyền giáo. Trong mười năm ông can đảm loan báo Tin Mừng cho người Ấn Độ, Nhật
Bản, giúp cho nhiều người hoán cải mà đón nhận Đức Tin. Và ông đã qua đời năm
1552, vào tuổi 46, ở đảo Xan-xi-an, cửa ngõ vào Trung Quốc.
Và như thế thánh Phanxico đã thực
hiện Lời Đức Giê-su: “Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!Tôi mà
tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì
đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. (1 Cr 9,16-17).