BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC I : Xh 3,1-8a.13-15
1 Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư
tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là
núi Khô-rếp.2 Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra
với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy
bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi.3 Ông tự bảo: "Mình phải
lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?
"4 Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông:
"Mô-sê! Mô-sê! " Ông thưa: "Dạ, tôi đây! "5 Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi
ngươi đang đứng là đất thánh."6 Người lại phán: "Ta là
Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác,
Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.
7 Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ
cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ.
Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng.8 Ta xuống giải thoát chúng
khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng
lớn, miền đất tràn trề sữa và mật.”
13 Ông
Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói
với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi
con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?" 14 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Đấng Hiện
Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: "Đấng
Hiện Hữu sai tôi đến với anh em."15 Thiên Chúa lại phán với ông
Mô-sê: "Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của
Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh
em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu
cầu Ta từ đời nọ đến đời kia."
ĐÁP CA : Tv 102
Đ. 8a Chúa là
Đấng từ bi nhân hậu.
1 Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc
tụng Thánh Danh! 2 Chúc
tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
3 Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các
bệnh tật ngươi.4 Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi
bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
6 Chúa phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
7 mạc khải cho Mô-sê biết đường lối của
Người,cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện.
8 Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,Người chậm giận và giàu tình
thương, 11 Như trời xanh trổi cao hơn mặt
đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
BÀI ĐỌC II : 1Cr 10,1-6.10-12
1 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về
việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt
qua Biển Đỏ.2 Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong
lòng biển, để theo ông Mô-sê.3 Tất cả cùng ăn một thức ăn linh
thiêng,4 tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống
nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức
Ki-tô.5 Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là
họ đã quỵ ngã trong sa mạc.
6 Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta
đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta. 10 Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã
lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt.11 Những sự việc
này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là
những người đang sống trong thời sau hết này.12 Bởi vậy, ai tưởng
mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.
BÀI GIẢNG
LÀM LÀNH VÀ SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC GIẢI PHÓNG !
Chúa
nhật II mùa Chay vừa qua, Đức Giêsu hé mở cho ba môn đệ thấy trước giá trị ơn
cứu độ (qua Hiển dung), và sau đó, Chúa giục các ông cùng đi xuống núi với
Ngài, để đưa cả nhân loại vào vinh quang ấy. Nhưng ai muốn được vinh quang của
ơn cứu độ, họ phải trải qua đau khổ. Do đó, các Bài đọc trong Thánh lễ hôm nay
:
° Nêu lên những nguyên
nhân đau khổ.
° Gây ý thức về giá trị
đau khổ.
° Cách giải quyết vấn đề
đau khổ để đạt vinh quang.
I. NHỮNG
NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN ĐAU KHỔ.
Đã là người, ai ai cũng phải hứng
chịu đau khổ ít nhất là một trong ba nguyên nhân, và thường là cả ba nguyên
nhân gây đau khổ như sau :
1/ Đau khổ do tội người khác gây
nên.
Cụ thể những người Galilê đang dâng
lễ bị tổng trấn Philatô giết khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang
dâng (x Lc 13,1 : Tin Mừng).
2/ Đau khổ do tội mình gây
nên.
Thánh Phaolô trong Bài đọc II nhắc
lại thái độ vô ơn của dân Do Thái trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa vì nhàm
chán của ăn nước uống Chúa ban hằng ngày cho họ dùng! Bởi đó họ đòi ông Mô-sê
dẫn họ trở lại làm nô lệ Ai Cập, miễn là được ngồi bên niêu thịt (x Xh 17). Vì
tội ấy, Chúa cho rắn trong rừng bò ra cắn chết 23.000 người nội trong một ngày
! (x I Cr 10,1-12 : Bài đọc II)
3/ Đau khổ do thiên nhiên gây nên.
Đan cử 18 người đang tham quan tháp
Silôam, thình lình ngọn tháp sụp đổ chôn sống tất cả trong lòng đất ! (x Lc
13,4 : Tin Mừng)
II. Ý THỨC VỀ
GIÁ TRỊ ĐAU KHỔ.
1/ Nếu đau khổ do tội người khác
gây nên : Ta biết ác tính của tội luôn mang chiều kích xã hội,
nghĩa là nó không chỉ gây tai họa cho người vi phạm mà thôi, mà nhiều khi người
vô tội lại phải chuốc lấy hậu qủa khó lường. Cụ thể như vua Pharaon vì ghen tỵ với
người Do-thái, thấy họ thành công, nên vua ra lệnh cho các bà đỡ, nếu gặp đàn
bà Do Thái sinh con trai thì phải bóp chết ngay, còn con gái thì tha (x Xh 1,15t) ; Hoặc vua Hêrôđê nghe tin hài
nhi nào đó mới sinh ra để làm vua, ông chắc ăn ra lệnh giết tất cả các trẻ từ 2
tuổi trở xuống ở vùng Bê Lem (x Mt 2), nhưng nếu Chúa không cho phép kẻ ác làm
hại người của Chúa, thì “chúng có bầy mưu
tính kế thâm độc cũng thất bại! Chúa ngồi trên trời mà cười nhạo chúng” (Tv
2,4).
Khi ta phải hứng chịu hậu quả do tội
người khác gây ra, đó chính là dấu chỉ ta được thông phần đau khổ với Đức
Ki-tô, vì Ngài vốn dĩ là Đấng vô tội, nhưng đã gánh lấy tội loài người (x Ga
1,29). Để ứng nghiệm Lời Thánh Kinh nói : “Lời kẻ thóa mạ Ngài này chính con hứng chịu” (Tv
69/68,10b). Thánh Phaolô gọi đây là cách ta được cộng tác với đau khổ của Đức
Giêsu để làm hoàn tất chương trình cứu độ loài người (x Cl 1,24).
2/ Nếu khổ vì tội mình.
* Có giá trị như một cái thắng, như
rào cản không cho phép ta lún sâu vào tội ác. Đan cử : đứa con hoang đường đã
phung phí hết tài sản người cha chia cho với bọn đàng điếm, nó lâm vào cảnh đói
khổ đến nỗi cám heo cũng không có mà ăn, lúc đó nó mới thức tỉnh trở về với cha
(x Lc 15,11t).
* Đau khổ bởi tội mình gây ra còn có
giá trị giúp ta sống khiêm tốn, như thánh Phaolô nói : “Để mạc khải cao siêu khỏi làm tôi quá tự tôn, thì tôi đã được một cái
dằm đâm vào thân xác, một thần sứ Satan để nó vả mặt tôi” (2 Cr 12,7).
3/ Nếu gặp khổ
do thiên nhiên, có
giá trị giúp ta nhận thức rằng :
Không
bám víu vào tạo vật mà tôn thờ nó như chúa tể để nương nhờ. Do đó hướng lòng ta
chỉ tôn thờ duy một Thiên Chúa, Ngài là Đấng toàn năng đưa ta vào cõi sống hạnh
phúc vĩnh hằng. Đan cử như tháp Siloam đè chết 18 người, tâm lý dân gian khi
thấy thế, ai cũng nghĩ kẻ bị tháp đè chết là do tội của họ bị Chúa phạt ! Đức Giêsu giải thích ngay : “không phải họ có tội hơn người khác mà bị phạt,
nhưng nếu người ta không sám hối, thì cũng
sẽ bị tiêu diệt in như thế !” (x Lc 13, 3-5 : Tin Mừng) Thánh Augustin nói
: “Bạn
đừng sợ cách chết dữ, mà hãy sợ cách sống dữ. Nếu sống lành ắt chết lành, dù
cách chết dữ ; Nếu sống dữ ắt chết dữ, dù cách chết lành”.
Một vị Giáo sư Đại học hỏi thách sinh viên mình : "Mọi vật hiện hữu đều do Chúa tạo thành?"
Một sinh viên mạnh dạn đáp : " Chính Ngài vậy
!"Giáo sư gặng : " Nghĩa là Chúa tạo thành mọi sự?"Sinh viên nọ
vẫn : " Vâng ạ !" Giáo sư bèn :"Nếu
Chúa tạo thành mọi sự hẳn Chúa cũng đã tạo ra sự dữ, bởi sự dữ (đang) hiện hữu,
và theo nguyên tắc muốn biết một người ra sao, cứ nhìn vào việc họ làm - (bởi Chúa đã tạo nên sự dữ) , thì
Chúa cũng là sự dữ vậy!" Sinh viên nọ nín thinh trước
lập luận ấy. Vị Giáo sư hả hê, "nổ " với đám sinh viên rằng lại một
lần nữa, ông ta đã chứng minh được đức tin Kitô giáo chỉ là chuyện hoang đường.
Một sinh viên khác giơ tay : "Giáo sư có thể cho
em hỏi một câu ?"
- "Xin mời !", Giáo sư đáp.Sinh viên ấy
đứng lên : "Thưa
Giáo sư, vậy (sự) lạnh có hiện hữu không ạ ?"
- "Sao lại không, hỏi hay nhỉ, anh chưa bị lạnh
lần nào chắc ?". Câu hỏi của
chàng sinh viên trẻ làm đám sinh viên còn lại khúc khích.
- Chàng sinh viên ung dung : "Thưa
Giáo sư, thật ra lạnh không hiện hữu. Theo các quy luật vật lý, cái được gọi là
lạnh chẳng qua là sự thiếu nhiệt lượng (nóng). Ở nhiệt độ ấy mọi vật thể đều trơ và không có
phản ứng. Vậy (sự) lạnh không
hiện hữu, chúng ta chỉ tạo ra khái niệm ấy để mô tả cảm giác khi chúng ta thiếu
nhiệt lượng."
- Chàng sinh viên tiếp : "Thưa
Giáo sư, bóng tối có hiện hữu ?"
- Giáo sư trả lời : " Tất nhiên là có." Chàng
sinh viên đáp lại : " E rằng Giáo sư lại lầm, cả bóng tối cũng
chẳng hiện hữu. Bóng tối thật ra chỉ là (sự) thiếu ánh sáng. Người ta không thể
đo lường bóng tối, nhưng một tia đơn sắc của ánh sáng có thể xuyên vào và làm
bóng tối ửng sáng. Điều đó cho biết làm sao người ta có thể xác định độ tối của
một không gian nào đó : bằng cách đo (ngược lại) lượng ánh sáng tại chỗ. Đúng
không ạ ? Vậy bóng tối chỉ là thuật ngữ được con người sử dụng để mô tả trạng thái
không có ánh sáng.
- Sau cùng chàng sinh viên hỏi vị Giáo sư:"Vậy thưa Thầy, sự dữ
hiện hữu chứ” Giờ thì đã kém cả quyết.
- Giáo sư gượng : "Tất nhiên là có, như tôi đã
nói. Chúng ta thấy sự dữ hằng ngày, trong chứng cứ thường nhật về xử sự bất
nhân giữa người và người, trong vô vàn tội ác và bạo lực khắp thế giới. Những
biểu thị ấy là gì, nếu không là sự dữ?"
- Đáp lại, chàng sinh viên nói : "Xin thưa
: sự dữ không hiện hữu, hoặc chí ít cũng chẳng hiện hữu cho chính nó (..or at
least it does not exist unto itself).
Như đã
nói về lạnh và bóng tối, sự dữ chỉ là việc thiếu sự hiện diện của Chúa, chỉ là
từ ngữ con người tạo ra để diễn tả việc Chúa không ngự đến. Chúa không tạo ra sự dữ.
Sự dữ là hậu quả khi Tình Yêu của Chúa không hiện diện trong tim chúng ta, hệt
như cơn lạnh ùa đến khi ta không còn hơi ấm, hệt như bóng tối bủa vây khi ta
mất đi ánh sáng.
- Thưa giáo sư, khi giáo sư dạy học trò muốn tìm
diện tích hình tròn, thì phải lấy bán kính nhân với bán kính của hình tròn đó
và nhân với 3,1416. Nhưng học trò lại nghĩ rằng làm như thế phức tạp cứ lấy chu
vi nhân với đường kính của vòng tròn là có đáp số. Thưa giáo sư đáp số đúng hay
sai ? Và người khác có quyền lên án giáo sư dạy học trò ngu dốt không biết tính
diện tích của vòng tròn không ? Thưa giáo sư, sở dĩ có sự dữ, có sai lầm nơi
con người cũng chỉ vì người ta không làm đúng với Lời Chúa dạy, thế mà có người
lại quy lỗi cho Thiên Chúa, giáo sư nghĩ sao ?"
Vị Giáo sư ngồi phịch.
Sau giờ học, vị giáo sư gặp riêng mấy sinh viên hỏi :
“Sinh viên lúc nãy đặt câu hỏi với tôi,
cậu ta là ai ?”
Một sinh viên đáp : “Thưa giáo sư, đó là Albert
Einstein” .
(Ông là
người gốc Do Thái, sinh năm 1879, mất năm 1955, là một nhà Vật lý học Bác học
lỗi lạc, lưu lạc bên Đức, rồi sau Đệ nhị thế chiến về làm việc ở Mỹ. Einstein
là cha đẻ của thuyết tương đối, ông đã canh tân về tư tưởng về bản chất của
không gian và thời gian, và đã hình thành căn bản lý thuyết cho việc khai thác
nguyên tử năng. Đo những lý giải về hiệu ứng quang điện. Ông được trao tặng
giải thưởng Nobel năm 1921).
Vậy
có những tai họa Chúa cho phép nó xảy ra để trở nên dấu chỉ răn dạy kẻ có tội,
là cơ hội giúp con người xét mình, mà sám hối tội mình phạm. Đó là cách Chúa
huấn luyện con người.
III. CÁCH GIẢI QUYẾT ĐAU KHỔ ĐỂ
ĐẠT VINH QUANG.
1/
Cần có người thủ lãnh can thiệp.
-
Xưa người Do Thái muốn thoát ách nô lệ Ai Cập, cũng như không để rắn cắn, họ
phải cần có ông Môsê đứng lãnh đạo và bầu cử trước mặt Thiên Chúa (x Xh 3 ; Ds 21,4t).
*
Nay tội nhân muốn được yên lành, họ cần phải nhờ Đức Giêsu, cùng Hội Thánh đứng
ra cầu xin Thiên Chúa Cha khoan dung và ban ơn cho tội nhân biết sám hối và làm
việc lành như người canh tác vườn xin ông chủ gia hạn thêm một năm để bón tưới
cho cây vả đã ba năm không sinh trái ! (x Lc 13,8 : Tin Mừng)
2/
Đừng cậy dựa vào vật chất, nhưng chỉ tin
tưởng vào Thiên Chúa.
Sự
thịnh vượng của dân Do Thái đã làm cớ cho bọn Ai Cập ganh ghét, nên bắt người
Do Thái làm nô lệ (x St 1,8t). Thế mà khi họ được giải thoát khỏi nô lệ Ai Cập,
họ không biết ơn Chúa đã dùng ông Mô-sê dẫn dắt họ, lúc gặp khổ họ lại muốn ném
đá cho ông chết để họ trở lại Ai Cập làm nô lệ !
Kìa,
ông Môsê, một tội nhân đang bị Ai Cập truy nã, thế mà bỗng nhiên ông trở thành
bậc vĩ nhân, đứng ra lãnh đạo dân Chúa, chống lại cường quốc Ai Cập ! Ông Môsê
nhờ đâu mà được như thế? Nếu không phải là Chúa đòi ông sống nghèo, biết tin
tưởng phó thác tuyệt đối nơi Ngài, đến nỗi còn một đôi dép để bảo vệ đôi chân
mà Chúa cũng bắt ông phải bỏ ra ! Bởi vì ai đến với Chúa, họ chẳng thiếu thốn
sự gì, đúng với Danh Thiên Chúa đã mạc khải cho ông : “Ta là Đấng Có!”
Ông
Môsê còn trở nên vị thủ lãnh vĩ đại hơn nữa là nhờ ông được phúc đón nhận Lời
Chúa ở trong rừng, Thiên Chúa nói chuyện với ông trong ngọn lửa cháy giữa bụi
gai, điều này báo trước Thiên Chúa sẽ ban Lời cho ông để truyền lại dân ở trên
núi Sinai, vì trong tiếng Do Thái, chữ bụi gai cũng na ná từ Sinai (x Xh 3,1-15
: Bài đọc I).
Vậy
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta sám hối và
làm điều lành như cây vả lớn sinh nhiều trái (x Lc 13,6-7 : Tin Mừng). Cụ thể
và quan trọng nhất là :
a-
Hãy nghe lời các
chủ chăn dẫn dắt ta vào Hội Thánh, như dân Do-thái được ông Mô-sê dẫn về miền đất Hứa, và
ông đã nói với dân : “Hãy kêu cầu danh
Chúa, từ đời nọ đến đời kia. Thiên Chúa sai tôi đến nói với anh em rằng : Danh
Chúa là “Đấng Hiện Hữu”, anh em hãy dùng mà kêu cầu Ngài từ đời nọ đến đời kia”
(Xh 3,13-15 : Bài đọc I).
b-
Ta hãy kết hợp
với Đức Giêsu Kitô, Ngài
thương ta hơn ông Môsê. Cụ thể khi dân Do Thái được ông Môsê dẫn họ ra khỏi
kiếp nô lệ Ai Cập, thay vì tôn thờ Chúa họ đã đúc bò vàng, Chúa nổi giận muốn
tiêu diệt họ và ban cho ông Môsê lãnh đạo một dân tộc khác lớn hơn, nhưng ông
Môsê thưa với Chúa : “Làm sao Chúa lại
bừng bừng nộ khí với dân như vậy, mà Người đã dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập với sức
mạnh lớn lao và cánh tay hùng mạnh ? Bọn Ai Cập sẽ rêu rao được rằng : chính
bởi manh tâm mà Người đã dẫn chúng ra đi để giết chúng nơi sa mạc và tận diệt
chúng khỏi mặt đất ? Xin hãy thu hồi nộ khí nóng nảy của Chúa mà hồi lại điều
dữ ngăm đe dân Người. Xin hãy nhớ lại Lời Chúa đã hứa với tổ phụ họ : Ta sẽ cho
dòng giống ngươi đông như sao trời như cát biển. Bây giờ ước gì Người miễn chấp
tội chúng … bằng không xin Người hãy xóa tên tôi đi khỏi Sách Người đã viết”
(Xh 32,7-14.32).
Vào
thời Thiên Chúa ra tay cứu dân, loài người còn tồi tệ hơn dân Do Thái xưa đúc
bò vàng tôn thờ, thế nhưng Chúa Cha đã không diệt ai, mà lại “phó nộp Con Một của Ngài vì chúng ta hết
thảy, làm sao Người lại không gia ân vạn sự cho ta làm một với Ngài” (Rm
8,32).
c-
Ta cần được nuôi
sống bởi thực hành ý Chúa, như Đức Giêsu đang lúc đói khát, các môn đệ mời Ngài ăn bánh, Ngài trả
lời : “Thầy có của ăn rồi, của ăn của
Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Chúng ta cũng được Chúa ban
của ăn đặc thù sau khi lãnh Bí tích Thánh Tẩy là hằng ngày được nuôi dưỡng bởi
Lời và ơn Chúa trong các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, để được sống
sung mãn vì được thông hiệp cùng một sự sống với Thiên Chúa, dù có chết cũng
được sống lại vinh hiển như Ngài (x Ga 6,27-58). Để rồi có khả
năng đi phục vụ đồng loại dưới ánh sáng Tin Mừng, như Đức Giêsu thực thi ý Cha
trên trời là của ăn làm no thỏa lòng người hơn của ăn vật chất. Vì thế thánh
Phaolô nói : “Tất cả chúng
ta cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng,
xuất phát từ tảng đá là chính Đức Kitô. Hơn dân Do Thái, họ cùng uống nước chảy
ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ, nhưng phần đông họ không đẹp lòng
Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc” (1Cr
10,2-5 : Bài đọc II).
Vậy đừng thấy mình còn được sống phây phây, luôn gặp vận hên, còn người khác
luôn xui xẻo, khốn khổ, thì tưởng là mình đạo đức tốt lành hơn họ ! Thánh
Phaolô cảnh báo : “Ai tưởng mình đứng
vững, hãy coi chừng kẻo ngã !” (1Cr 10,12) Nhưng hãy nhìn điều dữ người khác phải chịu là dấu tra vấn cách sống của
mình, mà tiến thân trong lòng tin và đức mến !
Như thế mới được “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội
lỗi,thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy
huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv
103/102,3-4 : Đáp ca)
THUỘC LÒNG.
Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã ! (1Cr 10,12)
http://phaolomoi.net
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH