BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC :
Cn 21, 1-6.10-13
1
Trong tay Đức Chúa, lòng vua tựa dòng nước chảy,Người lèo lái đi đâu tuỳ ý
Người. 2 Con người cho lối sống của mình là ngay thẳng,nhưng Đức
Chúa thấu suốt mọi tâm can. 3 Thực thi điều công minh chính trực thì
đẹp lòng Đức Chúa hơn là dâng hy lễ.4 Mắt kiêu hãnh, lòng tự cao,vẻ
hào nhoáng của ác nhân : thảy đều là tội lỗi.5 Kế hoạch người siêng
năng hẳn tạo ra lợi nhuận, ai vội vàng hấp tấp, ắt phải chịu đói nghèo.6
Kho tàng thu tích nhờ môi miệng điêu ngoa là hơi thở thoáng qua, là bẫy làm
thiệt mạng.
10 Lòng
ác nhân ước ao sự dữ,ngay bạn bè, nó chẳng để mắt thương.11 Phạt đứa
ưa chế giễu, kẻ khờ dại nên khôn,dạy bảo người khôn, người khôn càng hiểu biết.
12 Đấng Công Chính xem xét nhà của ác nhân,bắt ác nhân lâm vòng tai
hoạ.13 Kẻ bịt tai trước tiếng kêu của người cô thế,đến lúc nó kêu,
sẽ chẳng được đáp lời.
ĐÁP CA : Tv
118
Đ. Lạy
Chúa, trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi. (c 35a)
1 Hạnh
phúc thay ai sống đời hoàn thiện,biết noi theo luật pháp Chúa Trời.
27 Đường
lối huấn lệnh Ngài, xin cho con hiểu rõ,để con suy gẫm những kỳ công của Ngài. 30
Đường chân lý, này con đã chọn,quyết định của Ngài, con khao khát đợi trông.
34 Xin
cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ. 35
Trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi,vì con ưa thích đường lối đó. 44
Luật pháp Ngài, con nguyện hằng tuân giữ tới muôn thuở muôn đời.
BÀI GIẢNG
A. GIẢI ĐÁP
THẮC MẮC
Nhiều
người Công Giáo không nắm vững Giáo Lý, nên thường bị anh em Tin Lành tấn công
về chuyện Đức Mẹ đồng trinh. Họ thường dựa vào những Lời trong Kinh Thánh để
phủ nhận Đức Maria không đồng trinh. Cụ thể
-
Khi Đức Giêsu đang
giảng dạy có Mẹ và anh em Ngài đến tìm gặp Ngài (x Lc 8,20 ; Mc 3,31) : anh
em Tin Lành cho là Đức Giêsu còn có nhiều anh em ruột.
-
Bà Maria sinh Con đầu
lòng (x Lc 2,7) : anh em Tin Lành cho là còn có những người con khác.
-
Giuse và Maria không ăn
ở với nhau cho đến khi sinh Con (x Mt 1,25) : anh em Tin Lành tin là Đức Maria
chỉ đồng trinh cho tới khi sinh Đức Giêsu mà thôi, và sau đó vẫn sống đời vợ
chồng với thánh Giuse.
Đức Tin Công Giáo thì tin Đức Maria là Đấng trọn đời
đồng trinh, vì những lý do sau :
1/ Anh em
của Đức Giêsu :
a- Từ anh em trong Kinh Thánh dùng, tiếng Do Thái là
“Ăch”, tiếng Hy Lạp là “Adelphoi”. Từ này hiểu chung cả về anh em ruột cũng như
anh em họ, như ngôn ngữ Việt Nam : con chú
gọi là em, con bác gọi là anh. Thực vậy, ông Abraham là chú của Lót, mà Abraham
gọi Lót bằng từ “Ăch” (hoặc Adelphoi) [x St 13,8 ; 14,12 ; 29,10].
b- Về những anh em của Đức Giêsu là ông Giacôbê, ông
Giôsê, ông Giuđa, ông Simon (x Mc 6,3), thì cũng chính ông Marco cho chúng ta
biết ông Giacôbê, ông Giôsê con của bà Maria khác (x Mc 15,40). Như vậy rõ ràng
ông Giacôbê và ông Giôsê là những người anh em họ hàng với Đức Giêsu mà thôi.
c-
Trong sách Lêvi,
tiếng anh em vẫn được dùng để chỉ những người có họ xa : “Ông Môsê gọi các ông
Misaên và Ensaphan, con ông Útdiên là chú ông Aharon, và bảo họ : “Các chú lại
đây, khiêng các người anh em của các chú từ nơi thánh ra ngoài trại” (Lv 10,4).
d- Trước lúc tắt thở, Đức Giêsu trao Mẹ Ngài cho môn đệ
Gioan (x Ga 19,25-27). Về mặt tâm lý và nhân bản, nếu Đức Giêsu còn những em
ruột, thì Ngài không thể làm như thế được, mà ông Gioan là em của ông Giacôbê,
hai anh em cùng là con ông Zêbêđê (x Mt 10,2).
2/ Con đầu
lòng.
a- Thánh sử Luca ghi “bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ,
vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Con đầu lòng ở
đây, ông Luca không có ý nói còn có những người con khác, mà ông muốn nhấn mạnh
gia đình Nazareth
rất cẩn thủ giữ Luật Môsê, nên con đầu lòng buộc cha mẹ phải dâng cho Thiên
Chúa (x Xh 13).
b- Tại Tel el Yahudieh thuộc nước Ai Cập, trên mộ của
người phụ nữ Do Thái trước Chúa Giáng Sinh, có ghi câu diễn tả tâm tình người
mẹ : “Khi tôi phải đau đớn sinh con đầu
lòng, số phận đã đưa tôi sang cuộc sống khác”. Bởi thế câu này phải hiểu
sau khi sinh đứa con đầu lòng, người phụ nữ này không thể có người con khác, vì
đã chết. Con đầu lòng đối với người Do Thái còn có ý nhấn mạnh được hưởng gia
tài gấp đôi người em, nếu có, hoặc có nghĩa là gia tài của cha mẹ thuộc trọn về
người con này, nếu không có anh em khác (x Dnl 21,17).
3/ Thành
ngữ “cho đến khi”.
“Ông không ăn ở với bà cho đến
khi bà sinh một con trai và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Mt 1,25).
“Cho
đến khi” là một thành ngữ trong Thánh Kinh để nhấn mạnh về một điều gì đã có, đang có và không bao giờ
mất! Vì dụ
-
Trước khi Chúa Giêsu về
Trời, Ngài ra lệnh cho các môn đệ đi khắp thế gian tập họp môn đệ cho Ngài… và
Ngài hứa “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế” (Mt 28,19-20). Có nghĩa là Đức Giêsu đã từng ở với các môn đệ,
Ngài đang hiện diện với các ông và không bao giờ lìa xa họ. Thế thì câu Mt 1,25
nhấn mạnh ông Giuse và bà Maria đã không ăn ở với nhau và không bao giờ ăn ở
với nhau, minh chứng Đức Maria đồng trinh.
-
Bà Mikhan, con gái vua
Saolê không có con cho đến ngày chết (x 2Sm 6,23), thì không lẽ sau khi chết,
bà sinh con ư?!
4/ Sự đồng
trinh của Đức Maria.
a-
Xét về nguồn gốc bản văn Kinh Thánh, lời ngôn sứ Isaia chương 7 câu 14 tiên báo
về Đấng Cứu Thế : “Một người nữ sẽ sinh
con”.
-
Người nữ này ngôn ngữ
Do Thái là “Almah”. Almah không nhất thiết là một phụ nữ đồng trinh hoặc đã mất
trinh. Almah chỉ có nghĩa chung là một cô vợ trẻ, hoặc cô gái đến tuổi dậy thì.
Thế thì cô vợ trẻ hay cô gái đến tuổi dậy thì cũng không tất yếu hiểu còn trinh
hay mất trinh.
-
Nhưng bản văn bằng
tiếng Do Thái, khi dịch sang tiếng Hy Lạp, thời Đức Giêsu và các Tông Đồ sử
dụng bản văn này, thì lại xác định rõ : Cô vợ trẻ đó là một trinh nữ
(Parthenos). Dịch như thế là dựa vào lối giải thích từ tiếng Do Thái theo
trường phái Alexandria
(theo Bible Giêrusalem). Như vậy bản văn Hy Lạp xác định truyền thống giải
thích từ “Almah” với ý nghĩa rõ rệt là một trinh nữ, để chỉ người mẹ của Đấng
Emmanuel.
b- Xét về mặt Thần học, Đức Maria là khuôn mẫu của Hội
Thánh : Maria sinh Đức Giêsu là Đầu Hội Thánh ; còn Hội Thánh sinh các Kitô hữu
là chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm
Chúa Giêsu Kitô. Hội Thánh sinh con Thiên Chúa qua Bí tích không liên hệ với
người trần thế nào. Do đó Hội Thánh được gọi là một cộng đoàn trinh nữ (x Mt
25,1-13), thì Đức Maria cũng phải hiểu là một trinh nữ trọn đời như Hội Thánh.
c-
Thánh Irênê nói
: “Adam thứ nhất được sinh ra bởi đất trinh (đất chưa ai canh tác) ; Adam cuối
cùng (Đức Giêsu) được sinh ra bởi Mẹ đồng trinh.”
B. GIÁO
HUẤN
XÁC THỊT
KHÔNG SINH ÍCH GÌ, THẦN KHÍ MỚI LÀM CHO SỐNG
(Ga 6,63)
Vì
qúa đông người đang ngồi vây quanh Đức Giêsu để nghe Lời Ngài dạy, nên Đức
Maria và những người trong họ hàng của Ngài đến không thể gặp Ngài được, họ
phải nhờ người ta chuyển lời nhắn đến Ngài mà rằng : “Kìa mẹ Thầy và anh em
Thầy đang tìm Thầy ở ngoài”.
Đức Giêsu không trả lời, mà hỏi lại : “Ai là mẹ Ta và là anh em Ta ?”
Rồi Ngài chỉ vào những người ngồi quanh Ngài và nói : “Này là mẹ Ta và là
anh em Ta, ai làm theo ý Thiên Chúa, người ấy mới là anh chị em và là mẹ
Ta” (Lc 8,19-21: Tin
Mừng).
Sở
dĩ Đức Giêsu xem ra lạnh nhạt với người nhà của Ngài như thế vì hai lý do :
1/
Vì trước đó những anh em Đức Giêsu đã
làm mất mặt Ngài, khi Ngài đang phục vụ mọi người, “họ đến bắt Ngài và nói với mọi
người : “Ông này mất trí
rồi!” (Mc 3,21).
2/
Thần Khí hơn xác thịt : Thực ra
những người đưa tin về việc người nhà Đức Giêsu muốn gặp Ngài, là người ta chỉ
nhắm đến những người có liên hệ xác thịt với Ngài, nhưng Ngài lại muốn cho họ
biết : nếu chỉ liên hệ với Ngài vì dòng họ, có chung một dòng máu, thì phải nhớ
rằng : “Xác thịt không sinh ích gì, Thần Khí mới làm cho sống. Lời Ta là Thần
Khí và là Sự Sống”(Ga 6,63). Bởi đó Đức Maria chỉ thực sự trở nên Mẹ
Thiên Chúa, nhờ Mẹ nói tiếng “Xin Vâng
nghe Lời Chúa, và tin tưởng rằng Lời Chúa sẽ thực hiện cho Mẹ như Mẹ đã lắng
nghe” (x Lc 1,38). Nên bất cứ ai noi gương Mẹ Maria : có trái tim nghe Lời
Chúa để cộng tác với Chúa đem ra thực hành, thì họ giống Mẹ Maria, để được Đức
Giêsu nhận vào gia tộc thánh của Ngài,
như Ngài đã nói : “Mẹ tôi và anh
em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Chúa đã đặt chỉ tiêu nên thánh cho
mọi người : “Các con hãy nên trọn lành
như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Như thế thì quá khó, vì
Ngài là Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, còn ta là loài thụ tạo hữu hạn, làm
sao có thể đạt tới trọn lành như Cha trên trời. Nhưng nên hoàn thiện như Đức
Maria thì không quá khó, vì Maria là người như chúng ta, thì ta là loài người hèn
hạ tội lỗi mà được mang danh là “Mẹ Thiên Chúa”, đúng là “phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11,28 : Tung
Hô Tin Mừng), thì quả là vượt quá trí con người, không ai suy thấu. Ơn huệ đó
khởi đi từ lúc ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, rồi được tiếp tục thanh tẩy và
sinh lại bằng Lời (x Ga 15,3 ; Gc 1,18), cũng như được thanh tẩy và sinh lại
bởi Chúa Giêsu Phục Sinh (x Cv 2,38). Đây là hiệu quả của hai phần trong Thánh
Lễ, và Hội Thánh còn dùng quyền năng Chúa Thánh Thần ghi tạc Lời Chúa vào tấm
linh hồn và thân xác của những người đến tham dự (x 2Cr 3,3). Họ trở nên giống
Chúa Giêsu, Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở thành xác phàm, một thân xác
Chúa lấy từ xương thịt Đức Maria, nên thân xác của Đức Maria cũng là thân xác
của Con Thiên Chúa, và những ai sống Lời
Chúa như Mẹ.
Như
vậy bất cứ ai sống Đạo như Mẹ Maria, thì đều trở nên Đền Thờ đích thực được
Thiên Chúa ưa chuộng làm nơi Ngài ngự (x 1Cr 3,16-17). Vì Đền Thờ tâm hồn người
Công Giáo được Thiên Chúa quý hơn đền thờ Giêrusalem bằng vật chất mà người Do
Thái được ba vua ngoại giáo : vua Cyrôs, vua Dariô, vua Ac-tắc-sát-ta, thuộc đế
quốc Ba Tư giải phóng từ kiếp nô lệ Babylon được tự do hồi hương tái thiết Đền
Thờ, nhất là các vua còn lấy tiền bạc trích từ thuế thu được ở dân địa phương,
vì dân phải đóng góp cho vua không ai được gián đoạn, mà sắc chỉ của vua phải
được thi hành chu đáo, để cho con cái Israel : các tư tế, các thầy Lêvi, có của
lễ dâng lên Thiên Chúa với lòng hân hoan trong ngày khánh thành Nhà Thiên Chúa.
Họ đã dâng nhiều của lễ đắt tiền để tạ tội cho toàn thể Israel. Họ còn
thiết lập hàng tư tế theo các phẩm trật của họ, và các thầy Lêvi theo các cấp
bậc để phục vụ Thiên Chúa tại Giêrusalem. Các thầy Lêvi trăm người như một đã
thanh tẩy mình : tất cả đều thanh sạch (x Et 6,7-8.12b.14-20 : Bài đọc năm lẻ).
Qua việc tái thiết đền thờ Giêrusalem làm cho người
Do Thái rất hân hoan vui mừng, họ động viên nhau : “Ta hãy vui mừng trẩy lên đền thánh Chúa” (Tv 122/121,1 : ĐC năm
lẻ).
Việc
tái thiết đền thờ Giêrusalem đã minh chứng Chúa làm chủ lịch sử loài người,
Ngài có quyền điều khiển mọi vua chúa cùng đóng góp cho công việc của Thiên
Chúa. Cụ thể trong việc tái thiết đền thờ Giêrusalem cho người Do Thái có nơi
thờ phượng. Tác giả sách Cách ngôn viết : “Trong
tay Chúa, lòng vua tựa dòng nước chảy, Người lèo lái đi đâu tùy ý Người. Người
có quyền phạt kẻ ác, thưởng người lành, kẻ khờ dại lại được nên khôn, người
khôn càng hiểu biết thêm” (Cn 21,1-6.10-13 : Bài đọc năm chẵn).
Vậy
hết thảy những ai muốn được Chúa cất nhắc từ bụi tro, từ đống phân nhơ lên hàng
khanh tướng để được địa vị ngang với Mẹ Thánh Chúa, thì phải rắp tâm cầu nguyện
: “Lạy Chúa, trên đường mệnh lệnh Chúa
xin dẫn con đi” (Tv 119/118,35a : ĐC năm chẵn).
THUỘC LÒNG
Đức Giêsu nói : “Mẹ tôi và anh em tôi chính
là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21)
http://phaolomoi.net
Linh mục
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH