ĐỨC MARIA
ĐẤNG ĐỒNG CÔNG CỨU CHUỘC
Danh hiệu Đức Maria là “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”, xuất hiện từ thế kỷ
thứ 15, ở Áo quốc có một bản kinh bằng tiếng La Tinh : “Khi được cứu chuộc, Mẹ
đã trở thành”Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”. Tuy nhiên các nhà Thần học chỉ dùng
tước hiệu này sau năm 1939,vì đức Pio XI đã công bố ngày 28 tháng 04 năm 1935 :
Đức Maria là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, bởi lẽ thời Cựu Ước, Eva từ Adam thứ nhất được sinh
ra (x St 2,21). Do đó Adam thứ nhất phải chịu trách nhiệm về người vợ đã bất
tùng phục Lệnh Chúa ; thì vào thời Tân Ước, Adam cuối cùng (Đức Giêsu), được
sinh ra từ Đức Maria, thì Maria là Eva mới phải được chia phần đau khổ và vinh
quang bởi Adam cuối cùng hoàn toàn tùng phục Lời Chúa Cha. Công Đồng Vat.II
không dùng tước hiệu này, chỉ vì không muốn tranh cãi với anh em Tin Lành. Với
sứ mệnh của Đức Maria là “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc” loài người, dựa vào Tin
Mừng Luca đã được diễn tả qua Đức Tin và lòng Mến của bà góa thành Sarepta và
bà Lớn thành Shunem. Tuy nhiên, Đức Maria trổi vượt hơn hai bà này. Ta muốn
được Chúa cứu chuộc, thì phải biết lắng nghe và thực hành giáo huấn của Hội
Thánh, cũng là nghe và thực hành lời Mẹ Maria dặn, vì Mẹ là khuôn mẫu Hội Thánh
viên mãn.
I. ĐỨC MARIA
HƠN BÀ GÓA THÀNH SAREPTA VÀ CÒN HƠN BÀ LỚN THÀNH SHUNEM.
Thánh
sử Luca ghi lại cho chúng ta Lời Chúa
Giêsu xác định về sứ mệnh phổ quát của Ngài chiếu theo sứ mệnh của ngôn sứ Êlya
và Êlysê (x Lc 4,25t). Do đó phép lạ Đức Giêsu phục sinh con trai bà góa thành
Naim (x Lc 7,11-17 : Tin Mừng), có ý thể hiện giá trị phép lạ của ngôn sứ Êlya
cứu sống con trai bà góa thành Sarepta (x 1V 17,7t) ; cũng như ngôn sứ Êlysê
phục sinh con trai bà Lớn thành Shunem (x 2V 4,8t). Và như vậy ông Luca có ý
cho độc giả hiểu : dù ở hoàn cảnh nghèo khó như bà góa, hay được giàu sang như
bà Lớn,ta cũng phải có bổn phận cộng tác với Đức Giêsu, cũng như các chủ chăn
trong Hội Thánh. Nhưng hai bà dù có giúp đỡ các vị ngôn sứ của Chúa, thì vẫn
còn thua xa Mẹ Maria đối với Đức Giêsu :
1/ Bà góa thành Sarepta và bà Lớn
thành Shunem chỉ là dân ngoại giáo.
1’
Bà góa Maria là người Chúa chọn, là Mẹ Thiên Chúa, đó mới thật là Bà Lớn.
2/ Bà góa thành Sarepta và bà Lớn
thành Shunem giúp đỡ ngôn sứ Êlya và
Êlysê, hai vị này chỉ là người phàm.
2’
Mẹ Maria sinh, dưỡng, dục Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
3/
Ngôn sứ Êlysê báo cho bà Lớn thành Shunem biết : Chúa sẽ cho bà sinh con
bởi ông chồng.
3’
Sứ thần Gabriel báo tin cho Bà Lớn Maria biết : Bà sẽ sinh Con Đấng Tối Cao bởi
quyền năng Chúa Thánh Thần.
4/ Bà góa thành Sarepta chỉ giúp
ngôn sứ Êlya một chiếc bánh ; và bà Lớn thành Shunem mời ngôn sứ Êlysê nghỉ tại
nhà bà mỗi khi ông có dịp ngang qua.
4’
Đức Maria sinh, dưỡng, dục Con Thiên Chúa suốt 33 năm.
5/ Khi con trai bà góa thành Sarepta
qua đời, bà nói với ngôn sứ Êlya : “Giữa
tôi với ông có liên quan gì” (x 1V 17,18a).
5’
Trong tiệc cưới Canna, khi Đức Maria trình bày với Đức Giêsu về tiệc cưới thiếu
rượu, thì Đức Giêsu nói với bà góa Maria, Mẹ Ngài : “Giữa tôi và Bà có liên quan gì” (x Ga 2,4).
6/ Bà góa thành Sarepta vì làm theo
Lời Chúa dạy qua miệng ngôn sứ Êlya, nên hũ bột nhà bà không vơi.
6’
Đức Maria dặn dò người ta : “Đức Giêsu
bảo gì cứ làm theo”, nên họ đã có sáu chum rượu ngon hơn rượu cũ (x Ga 2).
7/ Con trai bà Lớn thành Shunem
chết, mà bà lại nói với ngôn sứ Êlysê : “Tôi vẫn bình an”.
7’
Con Một Bà Lớn Maria bị giết mà Bà vẫn đứng trụ (bình an) dưới chân thập giá
nhìn Con chết treo.
8/ Bà Lớn thành Shunem dù có chồng,
nhưng bà nói với ngôn sứ Êlysê : “Tôi không xin cho tôi có con”.
8’
Bà Lớn Maria dù có chồng, nhưng không xin cho mình sinh con, vì không ăn ở với
chồng.
9/ Hai ngôn sứ Êlya và Êlysê đều nằm
trên thi thể của hai đứa bé con các bà góa và bà Lớn, miệng kề miệng, mắt kề
mắt, tay kề tay mà cầu xin Thiên Chúa cho các cậu hồi sinh.
9’
Mỗi khi chúng ta dự tiệc Thánh Thể,Con Đức Maria “chui” vào lòng ta, bảo đảm cho
ta dù có chết vẫn được sống lại vinh hiển.
II. ĐỨC
MARIA LUÔN CẦU NGUYỆN CHO CHÚNG TA CHO ĐẾN NGÀY CÁNH CHUNG.
Trong
các phép lạ Đức Giêsu làm chỉ có ông Luca ghi lại cho chúng ta phép lạ Đức
Giêsu phục sinh con trai duy nhất của bà góa thành Naim lúc người ta đang
khiêng đi chôn, dù không có ai ngỏ ý xin Ngài điều ấy. Ta lại biết thành Naim
nằm kề cận thành Shunem. Như thế ông Luca muốn độc giả hiểu rằng đây là phép lạ
tiên báo thời cánh chung. Ngày ấy chẳng có ai kêu cầu Chúa cứu sống mình, chỉ
có Đức Maria ở trên trời hằng chuyển cầu cho con cái Mẹ là những người Công
Giáo, dù họ có chết vì tội đã phạm cũng sẽ được sống lại vinh hiển cả hồn lẫn
xác như Chúa Giêsu Phục Sinh. Uy tín của
Mẹ Maria trước mặt Thiên Chúa còn trổi vượt hơn uy tín của bà góa thành
Sarepta, cũng như bà Lớn thành Shunem, nhất là khi con bà Lớn chết, bà vội chạy
lên núi ôm lấy chân ngôn sứ Êlysê và nói : “Nào
tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói : “Xin đừng đánh lừa
tôi đó sao”. Vì thế ngôn sứ Êlysê phải cầu xin cho con bà sống lại (2V
4,27-28). Thì Đức Maria thấy chúng ta chết vì tội đã phạm, Mẹ cũng nói với Chúa
: “Tôi đâu có xin làm Mẹ các Kitô hữu, chính tôi đã được lãnh nhận chúng làm
con từ đồi Sọ, xin đừng để con tôi phải chết vì tội!” Chân lý này đã thể hiện
khi Đức Giêsu tự ý cho anh thanh niên con bà góa thành Naim sống lại, thì Ngài
không thể nào mà không cho chúng ta, cũng là con bà góa Maria được thoát tay tử
thần vì tội đã phạm.
Chúng
ta biết Đức Maria không chỉ xin với Thiên Chúa nhân danh cá nhân, mà Mẹ còn dựa
vào sứ mệnh Đồng Công Cứu Chuộc loài người với Giêsu, Con Mẹ. Mẹ lại được Chúa
tôn trọng và yêu mến, vì Mẹ là Hiền Thê (Evà Mới) của Chúa Giêsu (Adam cuối
cùng), như lời giáo huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 61.63
dạy :
F
Đức Maria đã
cộng tác một cách hoàn toàn độc nhất vô nhị vào công trình Đấng Cứu Thế, bằng
lòng vâng phục bởi Đức Tin, Đức Cậy, Đức Ái nồng nhiệt, để hoàn trả sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy trên bình
diện ân sủng, Mẹ thật là Mẹ của chúng ta.
F
Vì thế trong Hội
Thánh, Đức Maria được kêu cầu qua các tước hiệu : Trạng Sư, Vị Bảo Trợ, Đấng
Phù Hộ, Đấng Trung Gian. Vai trò trung gian của Đức Maria không làm lu mờ hay
suy giảm vai trò Trung Gian duy nhất của Chúa Kitô chút nào. Vì mọi ảnh hưởng có
sức cứu độ của Đức Maria trên nhân loại, đều bắt đầu từ công nghiệp dư tràn của
Chúa Kitô.
F
Do đó Mẹ là một
chi thể trổi vượt và độc đáo nhất của Hội Thánh, có thể nói : Mẹ là kiểu mẫu
của Hội Thánh.
F
Ngày nay Mẹ Chúa
Giêsu đã được vinh hiển hồn xác lên Trời, là hình ảnh và khởi thủy của Hội
Thánh sẽ hoàn thành đời sau thế nào, thì cũng thế, dưới đất này cho tới ngày
Chúa đến Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ của lòng cậy trông vững vàng, và niềm an ủi
cho dân Chúa đang lữ hành (sách GLCG số 964-972).
Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa toàn năng mà Ngài còn
muốn Mẹ cộng tác trong công cuộc cứu
chuộc loài người, Mẹ không phải là ôsin, cũng không phải là đầy tớ vô dụng của
Thiên Chúa, dù Mẹ tự xưng mình là tôi tớ Chúa (x Lc 1,38), nhưng người Tôi Tớ
Maria được sánh với các tổ phụ Chúa đã chọn như Abraham, Giacob, David…, họ đều
là các tôi tớ của Thiên Chúa. Thậm chí Đấng Cứu Thế cũng là Tôi Tớ của Thiên
Chúa (x Is 42 ; 49 ; 50 ; 52 ; 53).
Là người Công Giáo ai cũng là con Mẹ Maria, thì phải
nghe và thực hành Lời Chúa, để được Đức Giêsu gọi họ là mẹ của Ngài (x Lc
8,21). Với nhiệm vụ của người tôi tớ Thiên Chúa, thì ta phải tập sống các nhân
đức của người thủ lãnh mà thánh Tông Đồ đề cập tới :
-
“Làm giám quản thì phải sống tiết độ, chừng mực, nhã nhặn, hiếu khách,
có khả năng giảng dạy, không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng
phải hiền hòa, không gây sự, không ham tiền, biết điều khiển tốt gia đình mình,
biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh, vì ai không biết điều khiển
gia đình mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của Thiên Chúa được”.
-
Làm người trợ tá phải là người đàng hoàng biết giữ
lời hứa, không say xỉn, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn, phải bảo toàn mầu
nhiệm Đức Tin trong một lương tâm trong sạch.
-
Các bà phải là người đàng hoàng, không nói xấu, nhưng
tiết độ, đáng tin cậy mọi bề.
(1Tm 3,1-13 : Bài đọc năm lẻ).
Nói tắt : Người Công Giáo nào cũng phải hứa với Chúa
và Mẹ Maria : “Con sẽ sống theo lòng
thuần khiết” (Tv 101/100, 2b : ĐC năm lẻ).
Bởi vì hết thảy những ai đã lãnh Bí tích Thánh Tẩy
đều là chi thể trong Thân Mình của Đức Giêsu Kitô. Thánh Tông Đồ nói : “Thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có
nhiều bộ phận. Chúng ta đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một
thân thể thì phải bổ túc lẫn cho nhau. Bởi vì, tay không thể nói : tôi không
thuộc về thân thể, hoặc : tôi không phải là mắt, tôi không thuộc về thân thể.
Vậy anh em đã là thân thể của Đức Giêsu Kitô, và mỗi người là một bộ phận :
người làm Tông Đồ, người làm ngôn sứ, người làm phép lạ, kẻ khác làm việc quản
trị. Trong tất cả những ân huệ Thiên
Chúa ban, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất” (1Cr
12,12-14.27-31a : Bài đọc năm chẵn).
Vậy khi đã ý thức sống điểm giáo lý : “Ta là
chi thể trong Thân Mình Đức Giêsu Kitô”, thì ta tham dự vào sứ mệnh
“Đồng Công Cứu Chuộc” của Đức Maria, để cùng với Mẹ tuyên xưng Đức Tin : “Ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt”
(Tv 100/99,3c : ĐC năm chẵn), dân Chúa là người Công Giáo phải cùng với Mẹ
Maria làm cho thế giới nhận biết Chúa Giêsu là “Vị Ngôn Sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng
thăm dân Người” (Lc 7,16 : Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Mẹ Maria dạy loài người chỉ một lời duy
nhất : “Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5)
http://phaolomoi.net
Linh mục
GIUSE ĐINH QUANG THỊNH