BÀI GIẢNG
CÓ SINH
NHẬT NHỜ CHÚA GIÊSU
Phụng
Vụ trong Hội Thánh chỉ có hai lễ Sinh Nhật : Thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Maria,
còn các thánh khác, ngày Sinh Nhật được mừng khi các ngài mãn cuộc đời về với
Chúa (xem Lời Nguyện Đầu Lễ của Các Thánh).
Lý
do có lễ Sinh Nhật của thánh Gioan Tẩy Giả, vì trong loài người, chỉ có ông
Gioan từ lúc được tượng thai trong lòng mẹ cho đến chết có những điểm song đối
với Đức Giêsu nhằm dọn đường cho người ta đón nhận Đấng Cứu Thế ; còn lễ Sinh
Nhật của Đức Maria chỉ vì Mẹ đã sinh Con Một Thiên Chúa vào đời. Tin Mừng hôm
nay thiên thần ra lệnh cho ông Giuse đặt tên cho Con trẻ là Giêsu, nghĩa là
Thiên Chúa cứu độ (x Mt 1,21), mà người ta lại gọi tên Ngài là “Thiên Chúa ở
Cùng Chúng Ta” (x Mt 1,23). Như thế Kinh Thánh có ý nói Con Đức Maria, Con ông
Giuse theo pháp luật là “Thiên Chúa Cứu Độ ở cùng chúng ta”. Ngài thực sự ở
cùng chúng ta khởi đi từ lúc được lãnh Bí tích Thánh Tẩy, và được hoàn hảo khi
dự tiệc Thánh Thể, tái sinh làm con Thiên Chúa. Đó mới thực là Sinh nhật đáng
mừng của người Công Giáo, tại sao không thấy người Công Giáo tổ chức mừng lễ
Sinh nhật được tái sinh làm con Chúa, mà chỉ mừng ngày sinh ra bởi cha mẹ trần
thế, thuộc giống dòng Adam tội lỗi! Ngày chào đời bởi cha mẹ trần thế có gì
đáng mừng, vì “ngay lúc chào đời con đã
vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51/50,7). Chỉ duy có
Đức Maria ngay từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã nhắm chọn Đức Maria khi còn trong
dạ mẹ được cộng tác với Ngài thực hiện chương trình cứu độ loài người, với sứ
mệnh :
-
Mẹ tiên báo Đấng Cứu Thế sinh tại Bêlem và Mẹ được
tôn vinh.
-
Con Mẹ thuộc dòng dõi vua Đavid.
-
Con Mẹ đến xóa bỏ giai cấp.
-
Mẹ là Trinh Nữ tiền trưng các “Trinh Nữ khôn ngoan”,là
Hiền Thê Chúa Kitô.
-
Mẹ là mẫu cho loài người biết nghe Lời Chúa.
1/ MẸ TIÊN
BÁO ĐẤNG CỨU THẾ SINH TẠI BÊ-LEM, VÀ ĐƯỢC TÔN VINH.
Qua
lời ngôn sứ Mikha : “Phần ngươi hỡi Bê-lêm Ep-ra-tha, ngươi
nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa, từ
nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mệnh thống lãnh Israel, nguồn
gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa, vì thế Đức Chúa sẽ không bỏ mặc
Israel cho đến thời Đẻ sinh con (bản dịch NTT). “Đẻ sinh con” chính là Đức
Maria, là Hội Thánh. “Người sẽ dựa vào
quyền lực Đức Chúa mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, vì bấy
giờ quyền lực Người sẽ trải rộng đến toàn cõi đất. Chính Người sẽ đem lại hòa
bình” (Mk 5,1-4a : Bài đọc). Gia phả của Đức Giêsu theo ông Matthêu ghi
nhấn mạnh Ngài tuy là Thiên Chúa nhưng lại làm con của loài người, thì Ngài có
bản tính loài người. Thánh Gioan Kim Ngôn nói : “Thiên Chúa làm người cho con người được làm Thiên Chúa”. Nhất là
Đức Maria chỉ là tớ nữ của Thiên Chúa mà được tôn lên làm Mẹ Thiên Chúa
2/ CON MẸ THUỘC
DÒNG DÕI VUA ĐAVID.
Ông Đavid
thuộc gốc tổ Giacob, chi họ Giuđa, ông Giuđa là người đã được ông Giacob, cha
ông chúc phúc. Vì ông Giuđa có công ngăn cản anh em không được giết Giuse, ông
bày mưu để anh em bán Giuse cho người Ai Cập với hy vọng Giuse thoát chết, bởi
vì các anh em ông đã quyết định giết Giuse, em các ông (x St 37,26-27). Chúa đã
dùng miệng các ngôn sứ hứa cho nhà Israel
một vị vua – Đấng Mêsia – nối quyền vua Đavid, thuộc chi họ Giuđa mà Đavid là
vị vua tài đức nhất trong các vua của Israel (x 2Sm 7,12 ; Ed 37,24-35 ;
Is 44,28).
Để
minh chứng Đức Giêsu thuộc dòng vua Đavid đến thực hiện Lời Thiên Chúa hứa cứu
độ (x St 3,15), thì mở đầu gia phả Đức Giêsu, ông Matthêu ghi nhận Đức Giêsu là
Con vua Đavid (x Mt 1,1 : Tin Mừng), và kết thúc gia phả Đức Giêsu, ông khéo
léo nhấn mạnh vai trò quan trọng của Đức Giêsu là Vua Đavid mới, Ngài trổi vượt
vua Đavid xưa, chính Ngài mới là Vua toàn năng, đầy lòng xót thương (x Ep 2,4),
dẫn đưa loài người vào Hội Thánh mới thực là đất Chúa hứa chảy sữa và mật (x Xh
3,8.17), hơn xưa vua Đavid thắng mọi kẻ thù thống nhất 12 chi họ định cư trên
miền đất Chúa hứa. Đó là lý do ba lần ông Matthêu nhắc đến tên Đavid bằng cách
chơi chữ : 14 đời (từ Abraham đến Đavid 14 đời ; từ Đavid đến lưu đày Babylon 14 đời ; từ lưu đày Babylon đến Đức Giêsu 14 đời : Mt 1,17). Chọn
số 14 đời là tên vua Đavid, theo tiếng Hipri viết là : DaWiD (D = 4 ; W = 6),
như thế tên của Đavid viết bằng số là : 4a6i4 = 14. Trong gia phả Đức Giêsu tên
Đavid được đứng đầu, và cuối gia phả còn nhắc đến ba lần tên Đavid. Điều này
Kinh Thánh hữu ý xác định : Đức Giêsu là Vua Đavid mới, Ngài chỉ chăm sóc những
người được Thiên Chúa chọn làm nên gia phả của Ngài, và Vua Đavid mới này vô
cùng quan trọng qua dấu chỉ ba lần cuối
gia phả nhắc đến tên ông, Ngài trổi vượt xa vua Đavid xưa.
Vậy
những gì Chúa đã hứa cho chúng ta, không bao giờ Ngài quên thực hiện, như Lời
Ngài đã nói : “Trời đất qua đi, nhưng Lời tôi nói không bao giờ qua” (Mt
24,35).
3/ CON ĐỨC
MARIA ĐẾN XÓA BỎ GIAI CẤP.
Người
Do Thái khinh dể phụ nữ, thậm chí có người hồ nghi không biết phụ nữ có linh hồn hay không!? Cho nên truyền
thống của Do Thái khi viết gia phả của ai, không bao giờ người ta đưa tên phụ
nữ vào danh sách đó. Thế mà ông Matthêu một người Do Thái, viết Tin Mừng cho
người Do Thái, khi ông đề cập đến gia phả của Đức Giêsu, thì ông đã xé truyền
thống Do-thái : tự đưa vào gia phả Đức Giêsu năm tên người phụ nữ : Bà Thamar,
bà Rahab, bà Rut, bà Bat Shêba là vợ tướng Uria, và bà Maria là Mẹ của Đức
Giêsu (x Mt 1,3.5.6.16). Như thế những người trong dòng tộc của Đức Giêsu có đủ
mọi thành phần trong xã hội loài người : Người quyền cao chức cả như tổ phụ
Abraham, như vua Đavid, và còn nhiều vị khác có; người thấp hèn là bốn bà ngoại
giáo như Thamar, Rahaph, Rut, vợ của tướng Uria có ; người tội lỗi như bà
Rahaph là gái điếm có ; cuối cùng bậc thánh tuyệt với như Đức Maria có.
Thế
nên ai sống tâm tình con cái Thiên Chúa, không được khinh dể người khác. Thánh
Phaolô nói : “Trong Chúa không nam thì
cũng chẳng có nữ, không nữ thì cũng chẳng có nam” (1Cr 11,11). Có nghĩa là
nguyên tổ Adam, Eva là tiền trưng Chúa Giêsu và Hội Thánh của Ngài : Từ xương
thịt cạnh sườn Adam, lúc ông ngủ, Chúa tạo nên cho ông một người vợ là Eva (x
St 2,21-22). Hình ảnh này báo trước máu và nước từ tim Đức Giêsu bị đâm ngang
cạnh sườn phát sinh Bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thể. Ai lãnh nhận các Bí tích
này thì được tái sinh làm con Thiên Chúa, là Hiền Thê của Tân Lang Giêsu (x 2Cr
11,2). Bởi đó, mọi người nam hay nữ, nhất là những người Công Giáo phải biết
tôn trọng nhau, vì đã được cùng sinh ra bởi xương thịt Adam cuối cùng là Chúa
Giêsu, có chung một Cha trên trời.
4/ MẸ LÀ
TRINH NỮ TIỀN TRƯNG “TRINH NỮ HỘI THÁNH” LÀ HIỀN THÊ CHÚA KITÔ.
Ta
biết truyền thống Do Thái thời Cựu Ước không mong Đấng Cứu Thế sinh ra bởi một
trinh nữ. Đối với họ, “trinh” là một sự tủi nhục, như con gái ông Giép-tê than
khóc suốt hai tháng vì cô còn trinh, không xứng đáng để cha sát tế làm hiến vật
tạ ơn Thiên Chúa đã giúp cha cô thắng quân thù ! (x Tp 11, 29-40).
Thực
ra, lời ngôn sứ Isaia (7,14) theo nguyên bản Kinh Thánh bằng tiếng Hipri chỉ
nói người nữ ấy là “Almah” có nghĩa là cô vợ trẻ hay một thiếu nữ (không xác
định là còn hay mất trinh) ; nhưng Bản 70, viết bằng tiếng Hy Lạp lại xác định
người nữ ấy là “Parthenos” (trinh nữ). Đức Giêsu và các Tông Đồ dùng bản văn
này để giảng dạy, và sau này thánh Giêrônimô dịch bản văn này sang tiếng
Latinh, ông cũng xác định là Trinh Nữ
như bản 70, bản này được Hội Thánh dùng trong Phụng Vụ.
Vậy Đức
Trinh Nữ Maria là khuôn mẫu của Hội
Thánh, là cộng đoàn năm cô trinh nữ khôn ngoan, cầm đèn cháy sáng đi đón chàng
rể vào dự tiệc cưới (x Mt 25,1t), đoàn trinh nữ ấy cũng là Hiền Thê của Chúa
Kitô, khởi đi từ việc lãnh Bí tích Thánh Tẩy (2Cr 11,2). Đức Maria không liên
hệ với người trần thế nào, mà sinh Đức Giêsu là Đầu của Hội Thánh ; thì những
người tin vào danh Chúa Giêsu cũng không liên hệ với ai, sinh ra các Kitô hữu qua
Bí tích Thánh Tẩy, là các chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giêsu Phục
Sinh. Vậy Đức Maria và những người tin vào danh Chúa Giêsu cùng sinh Chúa Giêsu
cách trọn vẹn : Đầu và các chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm của Ngài.
5/ MẸ LÀ
MẪU CHO LOÀI NGƯỜI BIẾT NGHE LỜI CHÚA.
Ta biết Đức Mẹ được truyền tin sinh Con Một Thiên
Chúa vào đời trong hoàn cảnh éo le, vì lúc ấy
Mẹ đã đính hôn với ông Giuse, tuy chưa về chung sống một nhà, nhưng đã
là vợ chồng chính thức trước pháp luật. Theo sách Ngụy kinh kể lại cho chúng ta
: Cô Maria rất xinh đẹp và đầy nhân đức, cho nên chàng trai nào cũng muốn lấy
làm vợ, vì quá đông các chàng theo đuổi, nên họ xin với vị thượng tế cầu
nguyện, và chàng nào cũng mong mình trúng số lấy được cô Maria. Vị thượng tế có
sáng kiến, bảo các chàng trai mỗi người cầm cây gậy và cùng đến cầu nguyện, gậy
cậu nào nở bông là ý Trời muốn cậu đó se duyên với cô Maria. Thật là may mắn
cho Giuse, gậy của ông đã nở hoa huệ. Cũng vì lý do đó mà hôm nay các tượng
thánh Giuse, người ta thấy ngài cầm bông huệ. Thế mà khi Thiên thần báo tin cho
Đức Ma-ri-a thụ thai, thì Thiên thần lại nói Mẹ Maria là một trinh nữ, có nghĩa
là Maria không trở thành vợ của ông
Giuse như những người phụ nữ khác có đời sống lứa đôi! Điều ấy có trái với định
mệnh của ông Giuse và Maria lấy nhau hay không ? Vì gậy của ông đã được Chúa
cho nở bông ? Và như vậy Đức Ma-ri-a cũng
đã xác định rằng : mình là vợ chính thức của Giuse, vì đã được tiền định, bây
giờ không ăn ở với ông Giuse mà lại mang bầu, thì biết ăn nói thế nào với xã
hội, và dù có tâm sự với Giuse, thì liệu ông có tin hay không ? Chính ông Giuse
khi biết Maria có thai, ông “đã định tâm
lìa bỏ bà cách kín đáo” (x Mt 1,18t
: Tin Mừng).
Nhờ Mẹ Maria vâng nghe Lời Chúa, được Chúa ở cùng, để
sinh Con Đấng Tối Cao vào đời, đối với Mẹ là một đau khổ hơn là vinh dự, bởi vì
Mẹ phải đối phó với bao nghịch cảnh luật Do Thái thời bấy giờ.
Đau khổ hơn nữa là khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Đức
Giêsu, tất cả lời Thiên Chúa hứa trong ngày Truyền Tin : “Con Bà là Con Đấng Tối Cao, Ngài sẽ làm Vua, triều đại của Ngài vô cùng
tận” (Lc 1,32-33), và “Bà là người có
phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42). Chắc chắn những lời ấy đâm tim Mẹ
Maria khi Mẹ đứng nhìn Con bị treo trên thập giá (x Ga 19,25). Cứ như suy nghĩ
của người đời, thì bà Maria tin vào Thần dối trá! Thế mà Mẹ vẫn vững tin vào
quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, Mẹ đứng nhìn Con trên đồi Sọ như một dũng tướng đứng chỉ huy giữa chiến trường Đức Tin : sự thiện phải thắng sự ác,
chân lý phải diệt dối trá! Mẹ đứng giữ
bánh lái con thuyền Hội Thánh đang gặp sóng gió của niềm tin kinh hoàng nhất!
Bởi vậy Mẹ Maria trong ngày Truyền Tin đã thưa với sứ
thần : “Này tôi là tôi tới Chúa, xin Chúa
làm cho tôi điều Chúa nói” (Lc 1,38), trở thành mẫu cho chúng ta là con cái
Mẹ biết nghe Lời Chúa và tin Lời Chúa sẽ thực hiện điều ta đã nghe Chúa nói. Có
thế ta mới giống Mẹ Maria đã tin Lời Chúa hành động làm chủ đời mình, chứ không
chỉ dựa vào sức của mình để thực hiện Lời Chúa, Mẹ là hình ảnh Hội Thánh viên
mãn trong ngày cánh chung. Nhờ Con Thiên Chúa làm người, Ngài đến thực hiện
những lời chúc phúc cho dòng giống của tổ phụ Abraham, mà trong gia phả Đức
Giêsu ông Matthêu đã ghi nhận, để Ngài làm cho chúng ta trở thành dưỡng tử của Thiên
Chúa, cùng một xương thịt, cùng một sự sống, cùng vinh hiển trong Chúa Giêsu,
Con Đức Maria (x Dt 2,11 ; Ga 6,57 ; Gl 2,20 ; 2Tm 2,10).
Thánh Anrê, Giám mục Cơ-rê-ta nói : “Lễ Sinh Nhật Đức Maria đem lại cho chúng ta
hai mối lợi : Một là đưa chúng ta tới chân lý, hai là giải thoát chúng ta thoát
ách nô lệ satan, vì sống theo nghĩa đen
của Lề Luật. Điều đó xảy ra thế nào và lý do gì ? Thưa, ánh sáng đến đẩy lui
bóng tối và ân sủng mang lại tự do thay cho mặt chữ của Luật. Lễ Sinh Nhật Đức
Mẹ hôm nay là mốc phân ranh giới giữa hai điều đó, tức là phân ranh ánh sáng
đẩy lui bóng tối và phân ranh ân sủng thay cho mặt chữ của Luật. Vì Lễ này nối
kết chân lý với hình ảnh tượng trưng, lấy cái mới thay cho cái cũ”
Vì vậy, những người được Chúa cứu độ trong niềm hân
hoan tạ ơn nói : “Tôi mừng rỡ muôn phần
vì Đức Chúa” (Is 61,10 : Đáp ca). Chúng ta hợp cùng Hội Thánh dâng lời cầu
nguyện : “Lạy Đức Maria tinh tuyền thánh
thiện, Mẹ diễm phúc dường bao, xứng muôn lời khen ngợi. Vì Mẹ đã sinh hạ Đức
Ki-tô, là Mặt Trời Công Chính, là Thiên Chúa chúng con” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Đức Maria nói với loài người một lời duy
nhất : “Giêsu bảo gì cứ làm theo!” (Ga 2,5)
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE ĐINH
QUANG THỊNH