“Đừng để điều gì làm cho bạn xao xuyến. Đừng để điều gì làm cho bạn lo
sợ. Mọi sự đều qua đi, Thiên Chúa không thay đổi! Kiên nhẫn sẽ được tất cả. Ai
có Thiên Chúa, người ấy chẳng thiếu gì. Chỉ có Thiên Chúa là đã đủ” (GLCG số 227).
Đường Tăng Huyền Trang là một nhân
vật lịch sử. Một tăng sĩ dũng cảm, thông minh, tinh tế và là một học giả uyên
thâm kinh điển Phật giáo. Ông là một học giả thiên tài và nghiêm túc đã dịch
rất nhiều kinh sách Phật giáo ra chữ Hán. Ông đã ghi chép cẩn thận những gì mắt
thấy tai nghe trên đường đi thành tập “Tây Du Ký”. Đây là một tài liệu giá trị về xã hội, địa
dư, tôn giáo và lịch sử của Ấn-Độ thời ấy. Nhưng chẳng mấy ai đọc “Tây Du Ký”
của Huyền Trang.
Ngô
Thừa Ân không sử dụng tài liệu lịch sử của Huyền Trang, mà lại hư cấu một “Tây
Du Ký” khác. Dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân, Huyền Trang học giả biến thành một
Đường Tăng khù khờ, cả tin, hơi u mê và nhiều khi từ bi không đúng chỗ. Tuy
nhiên, thầy trò Huyền Trang Tam Tạng của Ngô Thừa Ân lại được nhiều người Á
Đông biết đến và say mê, vượt rất xa tác phẩm và nhân vật Huyền Trang chính
thức.
Vào
đầu thập niên 90, Trương Quốc Dũng đã hư cấu một Huyền Trang khác trong truyện
thật ngắn mang tựa đề “Đường Tăng”. Trong lời bạt của cuốn sách “40 truyện rất
ngắn”, nhà phê bình Lê Ngọc Trà nhận định sắc nét : “Truyện Đường Tăng đầy
những câu văn ngắn có hồn. Chữ ít nhưng dường như chữ nào cũng sống, cũng có
một âm điệu tình cảm, một không gian…”. Xin được phép trích nguyên văn truyện
thật ngắn này, một trong hai truyện được giải nhất trong cuộc thi truyện rất
ngắn 1993-1994 (dưới 1.000 chữ) của bán nguyệt san Thế Giới Mới :
Đêm
cuối cuộc trường chinh đầy gian khổ, ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp
Phật, đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được. Suốt cuộc đời tâm nguyện tới cõi
này, giờ đây khi sắp trút bỏ kiếp người, ông bỗng thấy lòng day dứt.
Chiều
nay, thân thể Đường Tăng đã rã rời, đầu óc đầy mộng mị, tay biếng lần tràng
hạt. Tâm linh như muốn níu chân dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần qua tim,
cứa vào qúa khứ đau xé. Ông nhớ tới những người sinh thành ra mình. Tình cha,
huyết mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay ông không một lần thắp hương, không một
lần nhắc nhở.
Chặng
đường dài tới đất Phật khiến trái tim ông dần chai sạn. ông đã quá nhiều lần
phải lạy lục, cầu khẩn các thần lớn bé, đã qua nhiều lần dẫm đạp lên xác máu
yêu ma xa gần, chỉ với một mục đích : mau thành chánh qủa. Nhưng đêm nay, trước ranh giới cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu
ra cội rễ của tình thương ấy. Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính
toán như xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài.
Nhiều
lần Đường Tăng đã tự hỏi tại sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây ông
thầm biết, trên con đường thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ
với con người.
Ông
trở mình, thở dài : không là người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao
kẻ chính từ trên đây xuống, pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào
chốn ấy biết rồi thành Phật hay thành ma ?
Đường
Tăng chợt nhói trong tim. Ông khẽ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đồ
đệ đang đứng bên giường nhìn ông âu lo. Cả ba hình như đều không ngủ.
Đường
Tăng thở hắt : “Không sao đâu, ta chỉ
chợt nhớ tới ngày xưa”. Nói rồi lại nhắm mắt.
Nghe
tiếng Ngộ Không : “Xin thầy đừng tự dối
lòng. Thầy đang nhớ cả kiếp người – Đường Tăng rùng mình khi giọng Ngộ Không
quá u uất – Con từ đá sinh ra. Coi thường cả thần thánh, yêu ma, chỉ mong được
thành người. Thầy đã là người lại tự bỏ mình đi tìm hồn phách khác. Đêm nay sao
khỏi xót xa”.
Bát
Giới cười khẽ : “Làm người có gì vui.
Chúng ta đã dốc lòng theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng
biết bao nhiêu. Thầy đừng luyến tiếc.”
Sa
Tăng an ủi : “Thầy trò mình sắp hóa Phật,
mang đạo xuống khai sáng cho loài người. Công qủa vĩ đại lắm !”
Đường
Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu, hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt
trào ra ấm nóng lại. Rồi như trăn trối : “Ta
ước gì đêm nay đừng sáng. Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi !
Một đời con mong được thành người thì bị ép phải theo ta để thành Phật. Bát
Giới tự dối mình, giác ngộ thật ra
chỉ là đi tìm một chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang
tưởng khác mà lại hy vọng khai sáng. Còn
ta ? Không còn là người, không phải là người thì làm sao đồng cảm mà đòi
khai sáng, cứu vớt con người.”
Ngộ
Không sụp xuống nắm tay thầy,nghẹn ngào : “Thầy
đã nhận ra chân lý. Nhưng chậm quá rồi.”
(Trích “Phẩm Giá Của Con Người” của Nguyễn Thái Hợp)
Truyện
Đường Tăng cho ta phải suy nghĩ : Đường Tăng mong thành Phật, khi sắp thành
Phật lại buồn vì không còn là người ! Mà không là người làm sao cứu được người
? Như vậy Đường Tăng thua xa Chúa Giêsu, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người. “Ngài đã trải qua thử thách và đau khổ, nên
Ngài có thể cứu giúp những ai bị thử thách !” (Dt 2,18) Và không ai có thể
lên cõi Phúc (lên Trời), ngoại trừ “Đấng
từ Trời mà xuống, để ai tin vào Ngài thì được sống hạnh phúc đời đời !” (Ga
3,13.15) Như vậy, muốn cứu ai ta phải có hai điều kiện :
- Sống
kiếp người giống như đồng loại ta muốn cứu, để ta cảm nghiệm được hoàn cảnh đau
khổ của họ. Đó là lý do Đấng Cứu Thế muốn làm người như chúng ta.
Nếu Thiên Chúa ngồi trên trời sai
thiên thần đến Việt Nam,
xem tình hình dân chúng sống ra sao, khi thiên thần trở về thưa với Chúa : “Lạy
Chúa, “đầy tớ nhân dân” rất giàu có, trái lại nhân dân làm chủ lại quá nghèo
khổ, bo bo không có đủ mà ăn. Chúa thắc mắc hỏi : “Tại sao thế, Ta không hiểu,
đầy tớ lại giàu hơn chủ nghĩa là sao?” Thiên thần thưa : “Đầy tớ nhân dân giàu
lắm, họ rửa tiền bằng cách đi xe hơi và uống bia ôm. Còn nhân dân làm chủ thì
không ai làm chủ một tấc đất, họ chỉ có quyền sử dụng, nên họ phải đi xe ôm và
uống bia hơi!”
Nghe thế, Chúa phán : “Ta phải xuống
xem sao, chứ nghe báo cáo thế thì Tây nó cũng chẳng hiểu nổi!”
- Như
vậy ta phải mạnh hơn người khác, mới cứu được họ. Do đó, Đấng Cứu Thế vừa là
người, vừa là Thiên Chúa toàn năng,
trong hoàn vũ này không ai mạnh bằng Ngài khi ra tay cứu ta.