BÀI GIẢNG
KHIÊM NHƯỜNG
CHIẾC THANG LEO LÊN DANH
VỌNG!
Lời Chúa trong Phụng Vụ hôm nay
dạy ta ba cách sống khiêm nhường để đạt danh vọng :
§ Chỉ lo luyện tài, tích đức cho
mình.
§ Phục vụ như Chúa Giêsu.
§ Để Thánh Thần dẫn vào dự tiệc Nước
Chúa.
1- HÃY LO LUYỆN TÀI,
TÍCH ĐỨC CHO MÌNH.
Chúa Giê-su dạy: “Khi dự tiệc,
chớ leo lên chỗ nhất, kẻo bị chủ bảo đi xuống chỗ cuối để nhường chỗ cho khách
đựơc chủ mời lên, bấy giờ ngươi phải xấu hổ!” (Lc 14, 8: Tin Mừng).
Tâm lý người đời, ai cũng mong
mình được người khác tôn trọng, kính nể, nhất là lúc có mặt trong bữa tiệc, lại
càng muốn chủ tiệc giới thiệu với khách về địa vị thân thế của mình, và được
mời lên ngồi nơi bàn danh dự. Nhưng Chúa Giê-su muốn mọi người: Đừng ai lo
người khác không biết đến tài đức của mình, một hãy lo cho có tài có đức thật.
Vì Chúa đã dạy: “Không ai thắp đèn để đặt dưới gầm giường, hay lấy
thùng úp lại ; nhưng, đèn sáng phải được đặt trên giá cao để soi sáng cho mọi
người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các ngươi phải chói lọi trước mặt người
đời, ngõ hầu họ thấy việc lành của các ngươi mà tôn vinh Cha các ngươi, Đấng
ngự trên trời” (Mt 5,14-16). Bởi thế Lời Thánh Kinh dạy: “Hãy để kẻ khác
khen con, chớ không phải miệng con, một người xa lạ, chớ không phải môi con”
(Cn 27,2).
Truyện kể rằng: Vào thời đệ nhị
thế chiến, nhà bác học lừng danh của thế kỷ 20 là Einstein, người gốc Do Thái.
Ông từ nước Đức sang lánh nạn ở Mỹ, mới đến đất Mỹ, bạn bè phê bình ông không
mặc y phục xứng với nhà trí thức, mà cứ ăn mặc bình dân ? Einstein đáp: “Để làm
gì ? có ai biết tôi là bác học đâu ?” Thời gian sau những chương trình nghiên
cứu khoa học của ông đã nổi tiếng khắp nước Mỹ, bạn bè vẫn thấy ông trong bộ đồ
cũ, họ lại hỏi ông: “Sao ông cứ mặc y phục ấy ?” Einstein đáp: “Có sao đâu, vì
ai ai ở Mỹ đều biết tôi là nhà bác học rồi mà”.
2- PHỤC VỤ NHƯ CHÚA
GIÊSU.
Chúa Giêsu dạy: “Khi dự tiệc
cưới, hãy chọn chỗ cuối” (Lc 14,10a: Tin Mừng). Ta hãy nhìn Chúa Giêsu đã
diễn tả lời giáo huấn trên trong bữa tiệc ly: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà
không giành cho đựơc chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa, Ngài đã tự hạ mình ra
không, là lĩnh lấy thân phận tôi đòi, tự thắt lưng lấy nước rửa chân cho các
môn đệ– đây là việc làm của kẻ nô lệ, và của dân ngoại – thế mà Đức Giêsu vừa
là Chúa vừa là Thầy, là người Do Thái, lại trở nên người hèn hạ nhất trong bữa
tiệc. Hơn thế nữa, Ngài đã bằng lòng phục vụ theo lệnh Chúa Cha cho đến chết
trên thập giá. Nhưng chỉ sau ba ngày, Ngài được Chúa Cha tôn vinh, khiến cho
mọi đầu gối quỳ phải bái thờ, và mọi miệng lưỡi đều tuyên xưng: “Giêsu
Kitô là Chúa” (x Pl 2, 6-11). Vậy càng làm lớn, càng phải hạ mình xuống
phục vụ để tỏ lòng yêu thương đồng loại, như thánh Phê-rô dạy: “Đừng lấy
quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu
gương sáng cho đoàn chiên.” (1Pr 5,3). Nhất là phục vụ nhằm hướng lòng
người ta về dự Thánh Lễ, như Chúa Giê-su khi Ngài rửa chân cho các môn đệ, Ngài
hướng họ về tiệc Thánh Thể mà Ngài sắp dọn cho các ông, để rồi nhờ dự tiệc của
Ngài, các ông biết phục vụ đồng loại như Thầy đã rửa chân nêu gương cho. (x Ga
13,12-17).
3- ĐỂ CHÚA THÁNH
THẦN DẪN VÀO TIỆC NƯỚC TRỜI (HỘI THÁNH).
Chúa Giêsu dạy: “Hãy chọn ngồi
chỗ cuối để chủ tiệc mời bạn lên chỗ danh dự” (Lc 14,10b: Tin Mừng). Lời
này Chúa Giê-su không có ý dạy: Mỗi khi ta đi dự tiệc của người đời, thì ta cứ
xuống bếp ngồi, chờ cho chủ tiệc mời lên trên. Nhưng khi ta tới phòng tiệc,
người chủ xếp ta ngồi đâu thì ngồi đó. Như thế mới là người có nhân bản, không
làm phiền ai, lại làm vui lòng chủ tiệc. Còn lời giáo huấn của Chúa Giê-su
trong Tin Mừng, Ngài nhắm nói với người Do-Thái: Phải khiêm tốn mới nhận ra giá
trị bàn tiệc Nước Chúa trong Hội Thánh mà Ngài đã thiết lập. Ai gia nhập Hội
Thánh mà muốn được tôn vinh, thì người ấy gắng khắc phục bản thân, sống đòi hỏi
của Tin Mừng để nên thánh. Vì người đi không cầu có bóng mà bóng vẫn theo,
người hô không cần tiếng vọng mà tiếng vẫn dội lại. Mẹ Tê-rê-sa hạ mình phục vụ
những người xấu số trong xã hội, dù mẹ không có địa vị gì cao cả trong Hội
Thánh, vậy mà cả thế giới tôn vinh mẹ, nhiều cường quốc xin mẹ làm công dân
danh dự.
Ta biết ai đã được lãnh Bí tích
Khai Tâm là người ấy có quốc tịch Nước Trời, chắn chắn sẽ được Chúa ưu đãi,
Ngài chăm sóc ta như con ngươi mắt Ngài (x Dnl 32,10), tương tư như khi đến một
nước tư bản, ai cũng mong thi đậu để trở thành công dân ấy, thì họ không còn lo
ăn gì, lấy gì mặc, thuốc đâu mà uống, đặc biệt vào tuổi già, chính phủ đã lo
cho họ chu đáo về mọi phương diện đời sống vật chất. Thế thì khi ta đã là công
dân Nước Trời, ta được Chúa xác nhận: Ta có địa vị cao cả hơn ông Gioan Tẩy
Giả, như Ngài nói: “Trong những người do người nữ sinh ra, không ai cao
trọng bằng Gioan Tẩy Giả, nhưng kẻ nhỏ trong Nước Trời còn lớn hơn ông” (Mt
11,11). Ông Gioan Tẩy Giả được cao cả như thế, vì trong loài người chỉ riêng
một mình ông giống Chúa Giê-su từ lúc tượng thai trong lòng mẹ cho đến lúc
chết. Và trong mầu nhiệm ơn cứu độ, ông là chú phù rể của Tân Lang Giêsu (x Ga
3,29). Nhưng, ông thua hẳn “kẻ nhỏ” trong Nước Trời là người Ki-tô hữu (x 1Ga
2,1.12.14.18), vì người Ki-tô hữu là Hiền Thê của Tân Lang Giê-su (x 2Cr 11,2),
nhất là còn được đồng hóa với Ngài (x Gl 2,20), và cùng một xương thịt, một sự
sống với Ngài (x Dt 2,11.14 ; Ga 6,57).
Chính vì ơn lộc Chúa ban cho người
Ki-tô hữu hơn lòng họ mong ước (x Ep 3,20), nên họ cất lời ca tụng Chúa: “Linh
hồn con khao khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, như nai rừng mong mỏi tìm về
suối nước trong, hồn con cũng trông mong, được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv
42/41,2-3).
Thánh Phaolô đã nêu lên sự nghịch
lý nơi người Do Thái, khi ông thấy dân ngoại ồ ạt vào Hội Thánh, việc này đã
trở nên dấu để cảnh tỉnh dân Chúa chọn: Đừng để thua dân ngoại, một hãy gia
nhập Hội Thánh - vào dự tiệc cưới của Chúa Giêsu – là được danh dự nhất, đáng
lý ra người Do Thái phải ồ ạt vào đầu tiên, vì họ đã được Chủ tiệc (Chúa Giêsu)
mời đón họ trước, nhưng họ lại quyết liệt chối từ, giống như khách chối từ tiệc
vua đã dọn: Người thì mới mua đất phải đi xem, kẻ mới tậu bò phải đi thử chúng,
đứa khác nói: tôi mới cưới vợ, không đi đâu được ! Cuối cùng các đầy tớ (Tông
Đồ) đi mời bất luận ai ở ngoài đường, dù là kẻ tàn tật đui mù (dân ngoại) vào
dự tiệc của vua (Hội Thánh) [x Lc 14,7-13]. Vì thế ông Phaolô tìm cách kích
thích dân Do-thái, người đồng chủng với ông: “Ông hỏi họ: Phải chăng Israel
đã vấp đến mức phải ngã quỵ ? Không phải thế ! Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa
cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tỵ. Nếu vì người Do-Thái
sa ngã, mà thế gới được ơn phúc dồi dào, thì khi họ suy vi, mà các dân ngoại
được vào Hội Thánh hưởng lộc Chúa ban, thì khi họ trở về đông đủ tình trạng còn
tốt đẹp hơn biết mấy! Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì
Người không hề đổi ý ” (x Rm 11,11-12.28-29 ).
Ông Phao-lô là chính tông Israel,
khi chưa được Tin Mừng Chúa Giê-su soi chiếu, ông chỉ biết Luật Mô-sê, và tưởng
rằng hễ triệt để tuân giữ Luật, đương nhiên mình là người công chính, bởi thế
ông đã vấp ngã trên đường Đama. Nhưng khi ông được môn đệ Đức Giê-su đặt tay,
để ông được nhận Thánh Thần, tức khắc mắt ông được sáng lại, đó là dấu chỉ ông
được Chúa mở mắt Đức Tin, từ đó ông trở nên Tông Đồ xuất sắc nhất của Chúa
Giê-su, không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x Cv 9,1t; 2Cr 11,5).
Vậy ông Phao-lô được đổi đời nhờ
Tông Đồ của Chúa Giê-su đặt tay, ban Thánh Thần xuống trên ông, với trải nghiệm
ấy ông hết lòng loan báo Tin Mừng, cũng là lúc ông thông ban Thánh Thần (x Ga
6,63) cho mọi người đến nỗi ông phải bị lao tù. Ngồi trong tù, ông động viên
mọi người hãy khuyến khích nhau nhiệt tình rao giảng Tin Mừng, như ông nói: “Dù
thế nào đi nữa với ý lành hay ý xấu, cuối cùng Đức Ki-tô được rao giảng là tôi
mừng. Và tôi sẽ còn mừng nữa, bởi vì tôi biết rằng điều ấy sẽ giúp cho tôi đạt
được ơn cứu độ, nhờ lời cầu nguyện của anh em, và nhờ Thần Khí của Đức Giê-su
Ki-tô phù trợ. Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi
phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức
Ki-tô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi
chết: vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời
này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn
đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở
với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết
hơn, vì anh em. Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ ở lại và ở bên cạnh tất cả anh em
để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui đức tin mang lại cho anh em. Như
thế, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em càng có lý do để hãnh diện về tôi, khi tôi
lại đến gặp anh em.” (Pl 1, 18b-26)
Có tích cực rao giảng Tin Mừng như
trên mới làm cho mọi người cất lời cầu: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời là
Chúa Trời hằng sống” (Tv 42/41,3a).
Vậy đừng ai tự tôn, tự mãn, tự ái
mà trì hoãn, chối từ vào Hội Thánh để được dự tiệc Thánh Thể – tiệc đưa con
người lên địa vị cao cả là được đồng hoá với Chúa Giêsu (x Gl 2, 20), cùng danh
là “Con Đấng Tối Cao” (x Lc 1,32 = Lc 6,35).
THUỘC LÒNG
Lc. 14, 11: Phàm ai
tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!
x Mt 11, 11: Kẻ nhỏ
trong Nước Trời (người Ki-tô hữu) còn lớn hơn ông Gio-an Tẩy Giả.