BÀI GIẢNG
THUỘC LÒNG
2.1(A)-
Tiếng lương tâm dạy ta biết có Đức Chúa Trời thế nào?
T. Khi ta làm điều tốt, tâm hồn ta
được vui, vì có Đấng thưởng ta ; Khi ta làm điều xấu, tâm hồn ta lo sợ, vì có
Đấng xử ta! Đấng ấy là Thiên Chúa (x
Lc 9,7-9).
Cn 28,1 : "Ác nhân trốn chạy, dù không ai đuổi bắt ; còn người công chính đứng
vững tựa sư tử non".
GIẢI THÍCH
- Lc 9,7-9 : Vua Hêrôđê tỏ uy quyền trước mặt bá quan văn võ đang dự
tiệc : ông hạ lệnh cắt đầu ông Gioan Bt, trao cho cô gái để trao lại cho mẹ nó!
Ông làm thế là tỏ uy quyền chẳng sợ ai. Nhưng thực ra, từ bấy giờ lương tâm ông
luôn cắn rứt và lo sợ. Khi nghe tin đồn về ông Giêsu giảng dạy hấp dẫn, làm
nhiều phép lạ thu phục được nhiều người, thì vua nói ngay : “Đó chính là Gioan Bt trẫm đã cho chém đầu
nay sống lại”. Điều này tố giác tâm hồn vua lúc nào cũng sợ ông Gioan Bt
trả thù. Đúng như người ta nói : “Chưa
đánh được người thì mặt đỏ như vang, đánh được người thì mặt vàng như nghệ” : Mặt đỏ là dấu người sống sung mãn ; mặt vàng
dấu chỉ xác chết! Quả thật, ta làm điều ác, luôn luôn lo sợ, vì phải đối diện
với Đấng Toàn Năng, dù không thấy Ngài. Đấng ấy xét xử rất công minh ; nhưng
nếu làm điều lành, tâm hồn ta luôn được bình an, phấn khởi, vui tươi, đó là dấu
được gặp Thiên Chúa khen thưởng.
- Cn
28,1a : “Ác nhân trốn chạy dù không ai
đuổi bắt”. Đan cử như ông Cain sau khi giết Abel, em ông, đi đâu ông cũng
cúi sầm mặt, sợ người khác nhìn. Chúa hiện ra hỏi ông : “Hà cớ chi ngươi phải sầm mặt xuống? Há không phải là nếu ngươi ở tốt
lành hãy ngẩng đầu lên!” (St 4, 6-7) .
- Cn
28,1b : “Người công chính đứng vững tựa
sư tử non” : Sư tử rất oai hùng vì là chúa sơn lâm, nhưng sư tử non thì
hiền như chiên. Người công chính hiên ngang nhìn đời, vì thu phục được nhiều
người, ai cũng mến!
Mạc Khải cho chúng ta biết :
- “Với lương
tri, với sự tự do và tiếng nói của lương tâm, với niềm khát vọng, sự vô biên và
hạnh phúc, con người tự hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Lần kia, ông Phaolô
và ông Barnaba chữa lành cho người què từ bẩm sinh, dân chúng thấy hai ông có
uy quyền và tài năng, họ tưởng ông Phaolô là thần Hermê, còn ông Barnaba thì
thần Dớt, thế là họ đưa vòng hoa và những lễ vật đặt trước mặt hai ông rồi sụp
lạy cúng tế. Ông Phaolô hết lòng giải thích : “Anh em đừng tưởng tôi có quyền
gì trên anh què này, chúng tôi chỉ nhân danh Chúa Giêsu, Đấng mà anh em đã giết
treo trên thập giá, ba ngày sau Ngài đã sống lại, chính Ngài làm cho anh què
này được lành mạnh chứ không phải chúng tôi, vì chúng tôi chỉ là người phàm như
anh em” (Cv 14,15-17).
- “Để mọi người
tìm kiếm Thiên Chúa, may ra họ dọ dẫm
mà tìm thấy Người, tuy rằng thật sự Ngài không ở xa mỗi người chúng ta. Thật
vậy, chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu,chúng ta thuộc về
dòng giống của Người, nên chúng ta không được nghĩ rằng thần linh giống như
hình tượng do nghệ thuật và tài trí con người chạm trổ trên vàng bạc hay đá quý”
(Cv 17,27-28).
THUỘC LÒNG
3.1(A) - Hội Thánh dạy cho ta biết về Đức Chúa Trời thế nào ?
T. Dựa
vào Kinh Thánh, Hội Thánh dạy ta biết chỉ có một Đức Chúa Trời Ba Ngôi : Ngôi
Thứ Nhất là Cha, Ngôi Thứ Hai là Con, Ngôi Thứ Ba là Thánh Thần. Ba Ngôi cùng
một bản tính : cùng tự hữu, cùng hằng có, cùng toàn năng, cùng toàn thiện, cùng
là tình yêu, là sự sống.
Ga 4, 23 : Những người thờ phượng đích thực,sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí
và Sự Thật. (Thần Khí là Lời Chúa - Ga 6,63 ; Sự Thật là
Chúa Giêsu - Ga 14,6).
GIẢI THÍCH
- Thiên Chúa là tình yêu là sự sống, chỉ nhằm cứu độ
loài người. Thực vậy, “Chúa Giêsu sai các
Tông Đồ đi khắp thế gian tập họp môn đệ cho Ngài bằng việc ban Thánh Tẩy nhân
danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19b). Chữ “và” trong
câu này theo ngôn ngữ Hy Lạp có nghĩa quan trọng như nhau, hoặc là rất cần
thiết, như thế cả Ba Ngôi Thiên Chúa không có khác biệt, cũng không tách rời.
Vì cùng là một Thiên Chúa. Để nhận ra chữ “và” quan trọng, Tin Mừng Gioan ghi
nhận : khi hai ông Phêrô và Gioan chạy ra mộ Đức Giêsu, ông Gioan tới trước,
nhưng đợi ông Phêrô tới, mới bước vào mộ. Ông Gioan nói : “Tôi đã thấy và tôi đã tin”
(Ga 20,8). Tin là đón nhận một chân lý mà mình không thấy, nhưng dựa vào uy tín
của người khác. Thế mà ở đây ông Gioan đã thấy, ông lại nói “tôi tin”, bởi vì
thấy không quan trọng bằng tin. Chính Đức Giêsu nói với các môn đệ : “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).
- “Thiên Chúa Ba Ngôi cùng một bản tính : Nghĩa là cả
Ba Ngôi
+ Cùng tự hữu : không bởi đâu mà sinh ra.
+ Cùng hằng có : không bắt đầu, không tận
cùng, luôn luôn là hiện tại.
+ Cùng chân,
thiện, mỹ.
+ Cùng một bản
thể
+ Cùng là tình
yêu.
+ Cùng là sự
sống và là sự sống lại.
+ Cùng toàn
năng : chỉ có Thiên Chúa biến dữ ra lành, biến chết ra sống, biến tội ra
ơn.
Tuy
Ba Ngôi Thiên Chúa không có sự tách biệt,
nhưng Hội Thánh vẫn hiểu cách biệt quy : Chúa Cha là Đấng sáng tạo ;
Chúa Con là Đấng cứu chuộc, bênh đỡ, nuôi dưỡng, giáo dục ; Chúa Thánh Thần là
Đấng ban phát các ơn lấy từ nơi Chúa Con, đã nhận được Chúa Cha trao cho tất cả
quyền năng, mọi sự tốt lành trên trời dưới đất (x Mt 28,18).
* Mầu
nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa trong Cựu Ước được mạc khải cách mờ nhạt. Thực vậy, khi
bắt đầu tạo dựng loài người, Kinh Thánh cho biết :
- “Chúng Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh
Chúng Ta, giống như Chúng Ta” (St 1,26a), “Chúng Ta” ở đây là Ba Ngôi Thiên
Chúa bàn định với nhau khi sáng tạo con người.
- Khi ông Abraham
thấy ba người khách lạ đi ngang qua lúc ông đang ngồi ở cửa lều, ông liền chạy
ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói : “Thưa
Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm
tôi tớ Ngài” (St 18,1-3).
Người
Do Thái không bao giờ sụp lạy bất cứ thần minh hay người nào, thế mà ông
Abraham sụp lạy trước ba người khách lạ. Đây là dấu ông Abraham nhận ra ba
người khách ấy là hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi ; ba người khách mà ông Abraham
lại chào : “Thưa Ngài” (số ít), đúng ra ông phải chào “thưa các Ngài”. Mạc Khải
này lộ ra ông Abraham tuyên xưng Đức Tin : Ba Người Khách đó là Thiên Chúa Ba
Ngôi.
* Vào thời Tân Ước chính Chúa Giêsu đã mạc khải rõ về
Ba Ngôi Thiên Chúa :
- “Cha tôi vẫn làm
việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
- “Thật, tôi bảo
thật các ông : người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều
Người thấy Chúa Cha làm ; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như
vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho
người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn
lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc”(Ga 5,19-20).
- “Đấng đã sai tôi
vẫn ở với tôi ; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý
Người” (Ga 8,29).
- “Lạy Cha, Con cảm
tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời Con. Phần Con, Con biết Cha hằng nhậm lời Con, nhưng
vì dân chúng đứng quanh đây, nên Con đã nói để họ tin là Cha đã sai Con” (Ga
11,41-42).
- “Tôi biết : mệnh
lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như
Chúa Cha đã nói với tôi”(Ga 12,50).
- “Thầy ở với anh
em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là thấy
Chúa Cha. Sao anh lại nói : ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’ ? (Ga 14,9).
- “Đấng Bảo Trợ là
Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều
và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
- “Chuyện đó xảy ra
là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã
truyền cho Thầy. Nào đứng dậy ! Ta đi khỏi đây !” (Ga 14,31).
- “Khi Đấng Bảo Trợ
là Chúa Thánh Thần đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha,
Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy”
(Ga 15,26).
- “Chúa Cha sẽ tôn
vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,14).
- “Tất cả những gì
Con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của Con ; và Con được tôn
vinh nơi họ” (Ga 17,10).
Có
nhiều hình ảnh thường được dùng để diễn tả phần nào về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi riêng biệt mà chỉ là một Thiên Chúa. Ví dụ :
- Nước ở ba trạng
thái : đặc, lỏng và hơi. Ba trạng thái của nước bản chất đều là một.
- Lửa cùng một lúc
tỏa ra sức nóng, ánh sáng và khói.
- Một người đúng
nghĩa là cha hay là mẹ, thì phải hội đủ ba yếu tố : sinh, dưỡng, dục người con.
- Đức Giêsu nói : “Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ
phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai
thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23).
* Thần Khí là
Lời Thiên Chúa, như Đức Giêsu nói : “Lời
tôi nói với anh em là Thần Khí, là sự sống” (Ga 6,63b) ;
* Sự Thật là Chúa Giêsu. Ngài nói : “Tôi là đường và là sự thật, và là sự sống”
(x Ga 14,6).
Thần Khí (Lời) và Sự Thật (Chúa Giêsu) là hai phần
chính của Thánh Lễ. Vậy tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi được Ngài ưa chuộng nhất,
chính là khi ta tham dự Thánh Lễ với Đức Tin và lòng Mến trọn hảo.
THUỘC LÒNG
4.1(A)
Ba Ngôi Thiên Chúa yêu loài người thế nào?
T. Muôn vật
kỳ diệu Chúa sáng tạo là quà tặng Ngài ban cho con người (x St 1,28-30), đặc biệt :
-
Chúa Cha : Ban Con Một của Người cho thế gian để được sống muôn đời (x
Ga 3,16).
- Chúa Con : Nghe được nơi Chúa Cha thì tỏ hết cho
chúng ta là bạn của Ngài (x Ga 15,15), và còn hiến mạng sống mình làm giá chuộc
cứu chúng ta thoát tử thần để cho ta được sống hạnh phúc dồi dào như Thiên Chúa
(x Ga 15,13 ; 10,10 ; 6,57).
- Chúa Thánh Thần : Ngài lấy tất cả
ân lộc Chúa Cha đã trao cho Chúa Con, mà phân phát cho con người, nhằm tái sinh
những ai tin vào Lời Chúa và tin vào danh Chúa Giêsu, Đấng cứu độ duy nhất, thì
được làm con Thiên Chúa trong Chúa Giêsu (x Cv 4,12 ; Ga 16,13.15 ; 1Ga 3,2).
GIẢI THÍCH
1-
TÌNH YÊU CỦA CHÚA CHA ĐỐI VỚI CON NGƯỜI.
Trước khi người mẹ sinh con, thì bà mua sắm nào là
sữa, nôi, giày dớ, tã …để chuẩn bị cho đứa con ra đời. Thế thì trước khi Thiên
Chúa tạo dựng loài người, Người đã tạo dựng muôn loài rất tốt đẹp như quà để
trao ban hết cho loài người làm chủ (x St 1,28-30).Đó là cách Chúa biểu lộ tình
yêu đối với loài người. Nhưng những điều ấy thua xa ngày nay mỗi khi tham dự
Thánh Lễ, ta lại được Chúa tặng ban cho ta chính Lời Hằng Sống, Thịt và Máu
Chúa Giêsu, để ta được sống bằng sự sống của Thiên Chúa (x Ga 6,57), và được
lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (x Ga 1,16). Quả thật “Thiên Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Xưa
kia ông Abraham dâng người con trai duy nhất cho Thiên Chúa, nhưng con ông
không phải chết (x St 22,19). Tình yêu ấy thua xa “Chúa Cha đã không tha cho chính Con của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì
chúng ta hết thảy, làm sao Người lại không gia ân vạn sự cho ta làm một với
Ngài” (Rm 8,32).
2-
CHÚA CON YÊU LOÀI NGƯỜI
Đức
Giêsu nói : “Thầy không còn gọi anh em là
tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn
hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”
(Ga 15,15).
Bạn
của Đức Giêsu không tất yếu là những người trung tín với Ngài mà còn có kẻ phản
bội Ngài. Đan cử : Ông Giuđa là môn đệ Ngài chọn, đã tráo trở dùng cái hôn làm
dấu để nộp Thầy cho kẻ ác. Đức Giêsu bảo hắn : “Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi !” (Mt 26,50a).
Để
nhận ra tình yêu cao cả của Đức Giêsu nói Lời Chúa Cha cho bạn hữu, ta không
thể quên mối tình của Gionathan đối với Đavid : Gionathan trân trọng Đavid vì
đã ra tay diệt quân thù, bảo vệ đất nước và ngai báu của vua cha, thế mà vua
cha chỉ vì ghen tức với Đavid, nên tìm mưu tính kế để diệt. Gionathan nói với
Đavid : “Bạn chớ vội đến dự tiệc cha tôi dọn, biết đâu cha tôi mượn cớ say rượu
để giết bạn. Bạn cứ ẩn nấp ở dãy núi này, tôi về dò ý vua cha, và khi biết rõ ý
cha, tôi sẽ báo cho bạn biết”… Quả thật, ngay từ lúc khai tiệc, khách còn đang
tới, thì vua Saolê đã tỏ ra cáu gắt vì chưa thấy Đavid. Gionathan biết là ý
không lành, anh liền chạy đi báo tin cho bạn Đavid biết thâm ý vua cha. Nhờ đó
Đavid thoát thân chạy trốn! Thời gian ấy, kẻ thù dấy lên, Đavid không dám ra
nghênh chiến, thế là cả hai cha con Saolê và Gionathan tử trận. Đavid lên làm
vua (x 1Sm 20).
Gionathan
tỏ ý thâm độc của vua cha cho bạn Đavid, nhờ đó Đavid thoát chết và lên làm
vua. Thì làm sao Đavid quên ơn Gionathan! Nhưng điều ấy vẫn còn thua xa Đức
Giêsu nghe được nơi Chúa Cha ý định chỉ muốn cứu loài người thoát chết vì tội,
để truyền lại cho những người “bạn” phản bội vì luôn phạm tội chống lại Thiên
Chúa, biết sám hối để được Chúa thương xót nâng lên bậc khanh tướng, thì còn
lời tạ ơn nào cho cân xứng!
Nhất
là những ai đã được ở trong Chúa Giêsu thì không còn bị lên án, mà nếu người ấy
còn mang tội, thì Thần Khí làm cho được sống vì đã được trở nên công chính
trong Chúa Giêsu (x Rm 8,1.10).
Thánh
Gioan còn nói : “Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta
được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16), Ngài ban ơn cho ta để làm
những việc như Ngài và còn làm được những việc lớn lao hơn thế nữa (x Ga
14,12), để ta cùng với Ngài thâu họp muôn vật dưới một đầu một mối trong Đức
Giêsu Kitô (x Ep 1,4-14 ; Cl 1,16-20).
3-
CHÚA THÁNH THẦN YÊU LOÀI NGƯỜI.
* Chúa Thánh Thần làm
cho trinh nữ Maria sinh Con Thiên Chúa, được đặt tên là Giêsu. Đức Maria là mẫu
người được Lời Thiên Chúa cứu chuộc, vì được Chúa ở cùng nên Đức Maria có danh
“Đầy Ơn Phúc” (x Lc 1,28 – Bản dịch NTT). Vì thế Đức Maria trở nên dấu chỉ Hội
Thánh Chúa Kitô thánh thiện,vì Chúa Giêsu là Đầu của Hội Thánh, và những người
được Ngài cứu chuộc trở nên chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Ngài. Bởi thế Đức
Giêsu muốn mọi người noi gương sống Lời Chúa của Đức Maria, để cùng có danh là “Mẹ
Thiên Chúa”, như Đức Giêsu nói : “Mẹ tôi
và anh em tôi chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”
(Lc 8,21).
* Chúa Thánh Thần làm
cho cả loài người cùng hiểu Lời do Hội Thánh rao giảng, để cùng được kết hợp với Chúa Giêsu làm mọi việc có
giá trị dắt nhau lên Thiên Đàng. Đó mới thực là tháp Babel mới mà xưa kia con cháu Noe muốn xây
chạm Trời, lưu danh muôn thuở mà bất thành, chỉ vì họ nói nhiều ngôn ngữ nên
không hiểu nhau (x St 11 ; Cv 2).
* Chúa Thánh Thần biểu
lộ sự toàn năng của Thiên Chúa, vì Ngài biến dữ ra lành, tội ra ơn, chết ra
sống. Thực vậy, ông Saulô vốn dĩ là kẻ hung ác, xông về Đama triệt hạ những
người Công Giáo. Nhưng khi được Chúa Giêsu ban Thánh Thần, và bảo ông đi học Giáo
Lý nơi môn đệ Ngài, từ đó ông biến đổi thành Tông Đồ xuất sắc, không thua kém
các Tông Đồ thượng đẳng (x Gl 2,9 ; 2Cr 11,5).