BÀI GIẢNG
Điểm độc đáo của Kitô giáo là minh
chứng về sự sống lại khởi đi ngay từ đời này, và chỉ những ai được kết hợp với Chúa
Giêsu Phục Sinh, mới được Ngài mời gọi cộng tác để xây dựng Nước Thiên Chúa cho
loài người dung thân.
I/ PHỤC SINH LÀ MỘT
CHÂN LÝ XÁC THỰC.
Những kẻ theo Đức Giêsu từ chỗ thất
vọng về Ngài, đến liều mạng minh chứng Ngài đã từ cõi chết sống lại:
1- Những người từng theo Đức Giêsu thất vọng về Ngài .
a. Khi Đức Giêsu bị bắt, ông
Phêrô thủ lãnh Nhóm Mười Hai đã chối Thầy (x Mt 26,69t), các môn đệ sợ hãi chạy
trốn hết (x Mc 14,50); chỉ có hai ông không thuộc Nhóm Mười Hai, đó là ông
Giuse quê tại Arimathia, hằng ngóng đợi Nước Thiên Chúa (x Lc 23, 50-51), và
ông Nicôđêmô hằng ấp ủ ơn tái sinh, từ lúc ông thụ giáo với Đức Giê-su suốt đêm
(x Ga 3). Hai ông này vẫn hy vọng Đức Giêsu sẽ giải phóng dân Do Thái thoát ách
thống trị Roma. Các ông cũng muốn làm
môn đệ Đức Giêsu, nhưng vì sợ người Do Thái, nên các ông theo Ngài cách lén
lút. Khi các ông thấy Đức Giêsu bị án tử cách bất công, khiến lòng tin của các
ông dao động bàng hoàng. Trong tâm trạng ấy, hai ông rủ nhau đến xin tổng trấn
Philatô cho hạ xác Đức Giêsu xuống để đem an táng trong mộ. Đây là hành động
tiên tri : Các
ông lãnh lấy “một niềm tin” đem chôn vào lòng đất, các ông không ngờ hạt lúa mì này nảy mầm
sinh nhiều bông hạt, cho loài người được sống cách dồi dào (x
Ga 19,38t ; 12,24).
b. Các phụ nữ đã từng theo hầu Đức Giêsu biết rõ cửa mộ Ngài đã bị niêm phong, và có
lính canh phòng cẩn mật, thì sáng hôm sau, các bà tò mò ra mộ xem! (x Mt
27,62-66 ; 28,1). Nhưng tới mộ, các bà thấy động đất lớn và có thiên thần mặc áo
trắng rạng ngời như mặt trời đến đẩy tảng đá che cửa mộ ra và ngồi trên đó (x
Mt 28,2-3). Đây là dấu hiệu Thiên Chúa xuất hiện như Ngài đã từng tỏ mình ra
cho ông Môsê ở núi Sinai (x Xh 19,18), làm cho các chú lính canh mồ khiếp đảm,
run rẩy ra như chết ! Còn các phụ nữ thì hoảng sợ và khóc lóc ! (x Mt 28,3-5 :
Tin Mừng năm A) ; Dù thiên thần của Chúa hiện ra như một anh thanh niên ngồi
trên tảng đá che cửa mộ đã được lăn ra, thiên thần trấn an các bà và ra lệnh :
“Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét,
Đấng bị đóng đinh chứ gì ! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt
Người đây này ! Xin các bà về nói với môn đệ
Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ
được thấy Người như Người đã nói với các ông.” Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy
trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi”
(Mc 16, 6-8 : Tin Mừng năm B) ; “Các bà
trở về báo tin cho các môn đệ, nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng
tin, chỉ có ông Phêrô nghe tin ấy, đứng
lên chạy ra mộ, khi cúi nhìn ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi, ông trở
về nhà rất đỗi ngạc nhiên” (Lc 24,8-12 : Tin Mừng năm C).
2- Từ là những người chậm tin, dốt nát, và nhát sợ, trở
thành những chiến sĩ Tin Mừng, sáng suốt, can
đảm, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh
Chứng lý xác thực và đáng tin nhất là :
Các môn đệ đều là những kẻ bạc nhược dốt nát, trở thành những người thông minh
sáng suốt, thậm chí họ nói tiếng Do Thái mà các dân tộc đều hiểu (x Cv 2). Và
các ông rất can đảm liều mạng, chấp nhận ra tù vào khám mà vẫn hân hoan làm
chứng cho Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết (x Cv 5,17t).
Đặc biệt nhất, Chúa Giêsu Phục Sinh đã
biến đổi biệt phái Saulô độc ác hơn chó sói, đã từng bách hại các tín hữu thời
sơ khai (x Cv 7-9). Thế mà sau khi được Chúa Giêsu chộp lấy, dạy ông phải đi
học giáo lý nơi các môn đệ Ngài, nhờ đó ông trở thành Tông Đồ xuất sắc, thâu
họp muôn dân về cho Chúa, không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5).
II/
ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH MỜI GỌI NHỮNG KẺ TIN NGÀI HÃY RAO GIẢNG VỀ NƯỚC THIÊN CHÚA,
NHƯ NGÀI ĐÃ KHỞI SỰ TỪ MIỀN BẮC GALILÊ TIẾN VỀ MIỀN NAM GIUĐÊ VÀ BỊ GIẾT TRONG THÀNH
GIÊRUSALEM.
Thực vậy, ngay sau khi Chúa Giêsu phục
sinh, chiến thắng mọi quyền lực sự ác, đánh gục thần chết, Ngài không đến ngay
với các môn đệ ở Giêrusalem để củng cố niềm tin cho các ông, mà Ngài lại bảo các
ông phải về Galilê mới được gặp Ngài, để nhận Lệnh đi khắp thế gian rao giảng
Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,16-20). Như vậy, các ông cùng mang một sứ mệnh
loan báo Tin Mừng cứu độ nhờ, với, trong Chúa Giêsu, bởi các ông cử hành Phụng
Vụ tại Nhà Thờ hằng ngày (x Lc 24,53). Từ ngày đó, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là
“anh em của Ta” (x Mt 28,10), vì
các ông đã trở nên cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự sống
với Chúa Giêsu, đến nỗi Ngài không sượng miệng gọi họ là anh em (x Dt 2,11.14 ;
Ga 6,57).
III/ NỘI DUNG SỨ ĐIỆP
TIN MỪNG CÁC MÔN ĐỆ RAO GIẢNG.
1- Qua Bài đọc I (St 1,1-2,2) : Thiên Chúa toàn năng
sáng tạo muôn vật trong vũ trụ vô cùng tốt đẹp rồi trao tặng cho con người làm
chủ.
a. Ngài toàn năng, chỉ một Lời
Ngài phán ra, muôn vật liền xuất hiện cách tốt đẹp ; cuộc sáng tạo kỳ diệu đó
cũng không sánh bằng nhờ Chúa Giêsu Phục Sinh, ai được sinh lại bởi Lời, người
đó trở nên con Thiên Chúa, một tạo vật mới trong các loài thụ tạo (x Gc 1,18).
b. Vì chỉ có một Thiên Chúa là
Chúa Tể vũ trụ. Bởi thế muôn vật, cả các thần minh (tinh tú) đều dưới quyền sắp
đặt và điều khiển của Ngài. Nhưng sau Tử Nạn và Phục Sinh, Chúa Cha đã trao
toàn quyền trên trời dưới đất cho Chúa Giêsu, và trước khi Ngài về cùng Cha,
Ngài lại trao tất cả quyền bính ấy lại cho các môn đệ, để các ông có quyền đóng
hay mở cửa Trời cho ai tùy ý (x Mt 28, 16t ; Ga 20,21t).
c. Thiên Chúa yêu thương loài
người, nên muôn vật tốt đẹp Ngài đã tạo dựng đều làm quà tặng trao ban cho loài
người ; ơn ấy không sánh bằng Chúa Giêsu trao ban Bánh Hằng Sống chính là Thịt
Máu Ngài để ai hưởng dùng thì được sống muôn đời (x Ga 6,22t).
Đúng là “tình thương Chúa chan hòa mặt đất” (Tv 33/32,5b : Đáp ca).
2- Qua Bài đọc II (St
22,1-18) : Thiên
Chúa thử thách ta trong tình yêu của Ngài.
a. Thiên Chúa yêu thương vợ chồng Abraham,
cho sinh con trong lúc tuổi già ; không sánh bằng Thiên Chúa đã chọn Trinh Nữ
Maria sinh Con Một Ngài vào đời để cứu thế gian (x Lc
1,26t).
b. Thiên Chúa lại thử thách tổ phụ
Abraham nặng nề, Ngài bảo ông giết con trai duy nhất làm hiến lễ ; sự vâng phục
ấy không sánh bằng Mẹ Maria dâng Con Một
cho Thiên Chúa, Mẹ đau đớn như lưỡi gươm đâm thâu lòng, nhất là lúc nhìn Con đã
chết trên thập giá mà kẻ ác còn đâm nát tim (x Lc 2,34-35 ; Ga 19,34).
c. Người con yêu của ông Abraham
cuối cùng cũng không chết vì đã có con chiên thế mạng ; nhưng Cha trên trời đã
không tha mạng cho Con Một Ngài, để trở
thành “Con Chiên Thiên Chúa gánh tội trần
gian” (x Ga 1,29 ; Rm 8,32).
Vậy ta hãy cầu nguyện : “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài
con đang ẩn náu” (Tv 16/15,1 : Đáp ca).
3- Qua Bài đọc III (Xh
14,15-15,1a) : Thiên Chúa, Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ ác thần.
Xưa kia Thiên Chúa đã sai ông Môsê dẫn
đưa dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập, và vùi dập quân Ai Cập cùng với chiến xa dưới
lòng biển ; cuộc giải phóng ấy không sánh bằng chính Con Một Thiên Chúa giải phóng
con người thoát án phạt của Lề Luật (x Gl 3,24), thoát tay tử thần, không còn
làm nô lệ cho Satan, vì đã đưa con người vào Hội Thánh (Nước Thiên Chúa), nhờ
nước Bí tích Thánh Tẩy (x Ga 3,5), và nhờ danh Chúa Giêsu Phục Sinh (x Cv
2,38).
“Nào
ta hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng” (Tv 16/15,1b : Đáp ca).
4- Qua Bài đọc IV (Is
54,5-14): Thiên
Chúa, Đấng trung tín trong tình yêu.
Dù dân Chúa chọn đã được Ngài dẫn dắt,
che chở, chăm sóc, hằng ngày, nuôi họ bằng manna (x Xh 16,4t), và nước tinh
khiết từ tảng đá chảy ra (x Xh 17,6), thế mà họ luôn làm phiền lòng Chúa như
những người vợ bội tình, nhưng Ngài vẫn không ruồng rẫy họ, thậm chí dù núi có
dời, đồi có chuyển, tình yêu Thiên Chúa vẫn không đổi thay. Ngài lấy ân lộc che
chở, như lấy ngọc thạch, đá quý xây thành tường lũy bao bọc họ, để không sự dữ
nào ám hại dân Ngài ; Những ân lộc lớn lao ấy không sánh bằng người Kitô hữu
mỗi ngày nhờ tham dự Phụng Vụ Hội Thánh cử hành được mặc lấy Chúa Kitô (x Gl
3,27), nên được ở trong vòng tay yêu thương, chăm sóc, gìn giữ của Chúa Cha và
Chúa Con, không sự dữ nào giựt người đã thuộc về Chúa khỏi vòng tay Thiên Chúa
toàn năng được (x Ga 10,27-30).
“Lạy
Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt” (Tv 30/29,2a : Đáp ca).
5- Qua Bài đọc V (Is 55,1-11) : Thiên Chúa làm cho ta
no thỏa sự sống.
Như một người khát nước, khát sữa,
khát rượu, mà được hưởng dùng đầy cao lương mỹ vị, không phải trả đồng nào. Đó
chỉ là hình ảnh tiên báo tiệc Thánh Thể. Ai đến tham dự, thì được Hội Thánh
tưới Lời Chúa vào tâm hồn, hơn nước mưa thấm xuống đất phát sinh sự sống,vì còn
được rước Lễ, thì chính Chúa Giêsu Phục Sinh canh tân đổi mới tâm hồn. Cụ thể được
Ngài biến tội ra ra ơn (x Rm 5,20), biến
chết ra sống (x Ga 6,35-40). Đến như “ai
được ở trong Chúa Giêsu thì không còn bị lên án
nữa, cho dù thân xác họ có chết vì tội đã phạm, Thánh Thần cũng làm cho
họ được sống, vì họ đã được trở nên công chính trong Chúa Giêsu” (x Rm
8,1.10).
Bởi thế ngôn sứ Isaia động viên : “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn
cứu độ” (Is 12,3 : Đáp ca).
6- Qua Bài đọc VI (Br
3,9-15. 32-4,4) : Thiên Chúa chính là sự khôn ngoan.
Người ta thường nói : “Khôn sống, dại
chết !” Ai được kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh , chính là kết hợp với “KHÔN
NGOAN”, Ngài hướng dẫn cách thi hành Luật Chúa, như “KHÔN NGOAN” đã sắp đặt vạn
vật, và điều khiển muôn loài theo ý Thiên Chúa. Bởi đó khi ta phải đương đầu
với nghịch cảnh vì làm chứng cho Tin Mừng, mà bị điệu ra tòa án, lúc ấy Chúa
Giêsu ban Thánh Thần để Ngài dạy ta nói điều phải nói trước mặt vua chúa quan
quyền (x Lc 12,11-12).
Bởi vì “Chúa mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68c : Đáp ca).
7- Qua Bài đọc VII (Ed
36, 16-17a.18-28) : Thiên Chúa quy tụ muôn dân và đổi mới lòng họ.
Chúa quy tụ những kẻ ngỗ nghịch lại, Ngài
ban Thần Khí trên họ, để Thần Khí sẽ đổi quả tim chai đá của họ bằng quả tim
biết yêu thương. Với trái tim ấy, họ biết lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa ! Đan
cử ông Phaolô vốn dĩ là kẻ có trái tim hung ác, đi bách hại người Công Giáo vô
tội (x Cv 9), được Chúa chộp lấy, đổi trái tim ông nên giống con tim Chúa Giêsu
(x Pl 2,5), để ông trở thành Tông Đồ tập họp muôn dân vào Hội Thánh (x Gl 2).
Vậy “lạy Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51/50,12a :
Đáp ca).
8- Qua Bài đọc VIII (Rm
6, 3-11) : Để
cụ thể con người đón nhận được ơn cứu độ, thánh Phaolô kêu mời tất
cả những ai đã tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh qua việc lãnh nhận Bí tích Thánh
Tẩy, thì không được sống cho chính mình nữa, mà sống nhờ, sống với, sống cùng
Đức Kitô qua ba lần trầm mình vào nước hay ba lần được đổ nước, tương ứng với
ba lần trong đời Đức Giêsu tự hủy diệt
(nhập thể, phép rửa, thập giá), để một khi cùng chịu khổ với Đức Kitô, thì cùng
được chia phần vinh hiển với Ngài ! Vì “gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh
quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể
có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr
15,43-44).
Vậy ta hãy “tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”
(Tv 118/117,1 : Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Nếu Đức Kitô không sống lại, ai tin vào Ngài,
họ là kẻ khốn nạn nhất trên đời ! (1Cr 15,17-19).
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH