BÀI GIẢNG
ĐỨC MARIA, MẸ
THIÊN CHÚA
CŨNG LÀ MẸ HỘI
THÁNH
Cuối
tuần Bát nhật lễ Chúa Giáng Sinh, Phụng Vụ (trước Vat.II) trong lịch sử như đã
lúng túng lựa chọn ý nghĩa lễ Cắt Bì và lễ Đặt Tên.
Nhưng
sau Công Đồng Vat.II, lễ Mẹ Thiên Chúa đã được Đức Phao-lô VI đặt vào ngày 1
tháng 1, và gọi là ngày Thế Giới Hòa Bình. Để lãnh hội hết ý nghĩa lễ Đức Mẹ là
Mẹ Thiên Chúa, ta hãy tìm hiểu trong lịch sử Phụng Vụ từ ý nghĩa lễ Cắt Bì hay
lễ Đặt Tên nay trở thành lễ Mẹ Thiên Chúa.
I. LỄ CHÚA
GIÊ-SU CẮT BÌ HAY ĐẶT TÊN.
1-
Ý nghĩa
ngày thứ 8: Các ý nghĩa của ngày lễ Cắt Bì hay lễ Đặt Tên được cử
hành vào ngày thứ 8, con số 8 biểu tượng cho cuộc tái tạo vũ trụ, cách riêng
đối với loài người mà Con Thiên Chúa thực hiện :
§
Cả loài người chỉ có 8 người trong tàu Noe được
cứu sống (x St 7,13).
§
Chúa Giêsu sống lại vào ngày thứ 8 (x Ga 20,1).
§
Ai sống tám Mối Phúc thì trở thành dân Israel
mới, trở thành người Công Giáo chính danh là con Đấng Tối Cao được no thỏa phúc
đức, trở thành người tác tạo bình an, vì Nước Trời là gia nghiệp của họ (x Mt 5,
1-12). Đặc biệt, số 8 gợi đến Tv 119/118 là Thánh vịnh nói về gía trị Lời Chúa.
Đây là Thánh vịnh dài nhất trong 150 Thánh vịnh. Điều ấy xác định rằng: Phải
dùng nhiều lời khác nhau mới diễn tả hết gía trị Lời Chúa (176 câu). Thánh vịnh
này được chia thành 22 ca khúc, mỗi ca khúc gồm 8 câu. Như vậy, con số 8 gợi
đến cuộc tạo dựng mới nhờ Chúa Giêsu Phục Sinh vào ngày thứ 8 (ngày thứ I trong
tuần), đã được diễn tả trong Tv 119/118.
Con số 22 gợi nhớ đến Tv 22: Chúa là Mục Tử nhân lành, có nghĩa là nhờ Lời Chúa
soi dẫn, nuôi dưỡng và đổi mới con người.
2-
Ý nghĩa
lễ Cắt Bì: Trước Công Đồng Vat.II, lễ này được đặt vào cuối tuần Bát
nhật mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Vì căn cứ vào Phụng Vụ của Cựu Ước: Để thuộc về
dòng giống Do Thái, tất cả những con trai đầu lòng sau khi sinh được 8 ngày, cha
mẹ phải dâng con vào Đền Thờ làm lễ Cắt Bì và Đặt Tên cho con (x Lv 12,1-5).
Sở
dĩ phải cắt bì để trở thành dân Do Thái, vì theo phong hóa của thời ấy, và nhất
là người Do Thái hiểu nghĩa đen lời Chúa chúc phúc cho tổ phụ Abraham được sinh
con đàn cháu đống (x St 22,17), thì việc cắt da quy đầu nơi dương vật của trẻ nam
bằng con dao đá, cũng để tạo điều kiện cho đứa trẻ đến tuổi lập gia đình dễ
dàng sinh sản con cái.
“Con đầu lòng dâng cho Chúa”: Không
được hiểu là còn nhiều người em khác, mà chỉ có ý nhấn mạnh người Do Thái phải
nhớ ơn Chúa đã sai thiên thần giết tất cả các con đầu lòng của thú vật cũng như
của dân Ai Cập, kể cả con vua Pharaon. Lúc đó đế quốc Ai Cập mới chịu để ông Môsê
dẫn dân Do Thái thoát nô lệ tiến về miền đất Chúa hứa lập quốc và thờ phượng
Thiên Chúa (x Xh 13,11t).
Nhưng
đối với Đức Giê-su, thì nghi lễ này trở thành dấu chỉ Ngài sẽ bị cắt nát cuộc
đời trên thập tự trở nên của lễ dâng lên Chúa Cha, mà Mẹ Ngài đã khai mào từ
lúc cắt bì cho Ngài theo luật Môsê, tiên báo Ngài bị giết, Ngài mới sinh con
đầu lòng là Hội Thánh qua Bí tích Thánh Tẩy, chính là những người được Chúa giải phóng khỏi ách nô
lệ tội lỗi và thần chết, hơn dân Israel cũ đã được Chúa cứu khỏi kiếp nô lệ Ai Cập.
3- Ý nghĩa lễ Đặt Tên: Tên
Giêsu được chính thiên thần chỉ định cho ông Giuse và Mẹ Maria đặt theo ý Thiên
Chúa (x Lc 1,31 ; Mt 1,21). Ai có quyền đặt tên thì có quyền sở hữu trên người được đặt tên, nghĩa là Con của Đức Maria
thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa, Ngài dùng Con Đức Maria để cứu muôn dân,
đúng ý nghĩa tên Giêsu là Thiên Chúa Cứu Độ. Xưa ông Adam đặt tên cho mọi sinh
vật, mà không sinh vật nào vừa ý ông để làm mẫu cho Chúa tạo dựng vợ ông, thì Chúa
lấy xương thịt từ cạnh sườn lúc ông đang ngủ tạo cho ông người vợ (x St
2,18-22). Vì ông là chồng của Evà, nên khi bà Evà chủ mưu lỗi Luật Chúa, ông
phải mang trách nhiệm, nên sự chết truyền đến ông và con cháu (x St 3) ; thì
Chúa Giêsu là Ađam cuối cùng vô tội, sinh ra Hội Thánh là Hiền Thê của Ngài giống
hình ảnh Thiên Chúa, nhưng vẫn còn phạm tội, thì Ađam cuối cùng cũng chịu trách
nhiệm gánh lấy tội Hiền Thê của mình để tẩy trừ nó (x Rm 5,12t).
II. LỄ MẸ
THIÊN CHÚA
Nguồn
gốc Phụng Vụ có lễ này là để chống lạc giáo do Giám mục Nestorio chủ trương: Đức
Ma-ri-a chỉ là Mẹ thân xác Đức Giê-su mà thôi. Công Đồng Ê-phê-sô ngày 22.06.431
đã tuyên bố: Đức Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa (cả thần tính lẫn nhân tính)
vì Mầu nhiệm Ngôi hiệp. Thần tính và nhân tính trở thành một ngôi vị, cũng như
linh hồn và thân xác con người trở thành một ngôi vị. Nếu bảo bà A là mẹ của B,
thì phải hiểu bà A là mẹ cả hồn lẫn xác của B, mặc dầu nếu không bởi Thiên
Chúa, thì A cũng chẳng thể sinh ra B.
Để
tỏ lòng kính mến Mẹ Thiên Chúa, lịch sử Phụng Vụ đã trải qua những thay đổi của
ngày lễ :
ò Bắt đầu chỉ có vua Giuse Emmanuel là vua nước
Bồ Đào Nha xin Tòa Thánh đặc ân mừng lễ này. Sau này nhiều nước trên thế giới
cũng bắt chước mừng theo.
ò Đến ngày 22.01.1751, Thánh Bộ Nghi Lễ ký sắc
lệnh cho phép kính Đức Mẹ Thiên Chúa trong toàn thể Giáo Hội và ấn định vào
ngày Chúa nhật đầu tháng 5 (tháng hoa Đức Mẹ).
ò Năm 1931, nhân kỷ niệm 1.500 năm Công Đồng Êphêsô,
Đức Piô XI, đã truyền kính trong toàn thể Giáo Hội vào ngày 11.10.
ò Sau Công Đồng Vat.II, Đức Phaolô VI đã ấn định
vào ngày 1.1, vì những lý do sau: Đức cố Giáo hoàng Gioan 23 đã lấy ngày lễ
kính Đức Mẹ Thiên Chúa 11-10-1962 để khai mạc Công Đồng Vat.II, và đã thành
công rực rỡ như một lễ Hiện Xuống mới ; như một cuộc sáng tạo mới. Bởi đó, khi Đức
Phaolô VI đã đặt Lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng 1, thì ngài nêu lý do: “Nhằm tôn kính việc Đức Mẹ góp phần vào Mầu nhiệm cứu độ và
tôn kính địa vị đặc biệt, khiến cho Mẹ Rất Thánh đáng tiếp nhận nguồn sống cho
Hội Thánh.” (Phaolô VI Marialis Cultus số 5)
Vậy
ta phải sống những điểm giáo lý của ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa mà Hội Thánh muốn dạy
ta :
1/ Đặt lễ kính Đức Maria vào
cuối tuần Bát nhật Giáng Sinh để ca tụng Mẹ trong chức vụ
làm Mẹ Thiên Chúa, đồng thời đề cao nhân đức của Mẹ: “Giữ kỹ Lời Chúa trong lòng và suy đi nghĩ lại’’
(x Lc 2,19.51: Tin Mừng) rồi đem ra thực hành (x Lc 8,21). Cụ thể, Mẹ đã làm
trọn ý nghĩa của Phụng Vụ “Cắt Bì” và “Đặt Tên”: “Giêsu QUẢ LÒNG BÀ đáng chúc tụng”
(Lc 1,42: Bản dịch NTT), có nghĩa là bà Maria (Eva mới) đưa “quả lòng Bà” là
Chúa Giêsu cho chúng ta ăn, thì được sống dồi dào hạnh phúc muôn đời giống
Thiên Chúa (x Ga 6,35-58 ; 10,10) ; khác hẳn xưa bà Eva đưa quả cấm cho Adam ăn
làm cho cả dòng giống phải tử vong (x St 3).
Ma-ri-a
là Mẹ Thiên Chúa nên cũng là Mẹ thật của mỗi Kitô hữu, là Mẹ của Hội Thánh.
Nghĩa là một khi các Kitô hữu trở nên con đầu lòng của Thiên Chúa trong Giêsu
Con của Mẹ, thì cuộc đời người Kitô hữu cũng phải thuộc về Thiên Chúa để tiếp
tay với Chúa Giêsu cứu độ đồng loại.
2/ Sự trùng hợp ngày thứ 8 (cuối tuần Bát nhật)
với ngày 1 tháng 1, ngày đầu niên lịch, ngày này được gọi là ngày
lễ Mẹ Thiên Chúa, với những ý nghĩa đã được diễn tả trong ngày lễ Cắt Bì và Đặt
Tên, thật xứng với ý nghĩa ngày Thế Giới Hòa Bình, mà Đức Phao-lô VI đã đặt cho
nhờ “Qủa Lòng Bà”, vừa nuôi sống Israel mới, vừa đạp nát đầu con rắn, địch thù
của nhân loại, đem lại nền hòa bình đích thực và vững chắc cho thế giới. Và
giáo lý Công Giáo còn muốn khẳng định rằng: Loài người chỉ có bình an đích
thực, khi cả loài người được trở thành con Thiên Chúa, con Mẹ Maria, nhờ được
tái sinh bởi Chúa Giêsu (x Cv 2,38). Đặc biệt mỗi ngày qua Bí tích Thánh Thể ta
tham dự, thì Chúa tiếp tục tái sinh ta, vì được trực tiếp gặp Chúa Giê-su (Tung
Hô Tin Mừng). Bởi lẽ “Thiên Chúa chỉ chúc phúc cho dân Ngài dưới quyền bảo trợ
của danh Chúa” (x Ds 6,22-27: Bài đọc I).
3/ Mỗi người Ki-tô hữu
phải trở nên “Mẹ của Thiên Chúa”,
một danh hiệu diễn tả ân lộc lớn lao của
Thiên Chúa ban cho con người! Bởi vì con người mơ ước được bằng Thiên Chúa đã bị
coi là kiêu ngạo, thế mà Chúa Giêsu còn muốn cho ai tin vào Ngài, họ được Ngài
xác nhận: “Đây là Mẹ tôi” (x Lc 8,21 ;
11,28), thì qủa là một ơn vượt qúa trí hiểu loài người !
Vậy
để thực hành Lời Chúa, noi gương Mẹ Maria, ta phải :
-
Lắng nghe Lời Chúa trong lòng tin yêu, suy gẫm và đem ra thực hành (x Lc
2,19.51: Tin Mừng ; Lc 8,21).
-
Đoán ý của người khác để phục vụ (x Lc 1,39t ; Ga 2,3).
- Loan
báo Tin Mừng cho muôn dân, quy họ về làm con Thiên Chúa, làm con Mẹ Maria là lễ
vật được Chúa ưa chuộng (x Rm 15,16). Để làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Mikha: “Đến thời đẻ sẽ sinh con” (Mk 5,2 – Bản
dịch NTT).
4/ Đặt lễ này vào đầu
niên lịch, cũng nhằm thánh hóa thời gian Chúa ban cho mỗi người.
Thời gian chỉ có ý nghĩa khi nó được dùng vào việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x
Mt 6,33), mong muốn đón nhận Lời bằng cả trái tim và đem ra thực hành. Hình ảnh
ông Gioan ngả đầu vào ngực Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly để nghe được tiếng Chúa
trong con tim của Ngài, đó cũng là hình ảnh người Kitô hữu nghe Lời Chúa trong
Phụng Vụ để được Chúa chỉ cho biết ai là kẻ nộp Ngài, chớ theo nó (x Ga 13,25),
đặc biệt khi Đức Giêsu chấm dứt cuộc đời trên dương thế, Ngài đã trao Đức Maria
cho Tông Đồ Gioan. Ta biết con người khôn hơn các sinh vật khác là bởi lý do từ
khi sinh ra đến lúc trưởng thành vào đời, được ở với người mẹ lâu nhất !Vì thế,
ông Gioan không phải chết đổ máu như các Tông Đồ khác, lại còn được sống thọ đến
cuối thế kỷ thứ nhất. Nhờ thế mà Tin Mừng của ông viết rất sâu sắc, nghĩa là
ông hiểu Chúa hơn Tin Mừng Nhất Lãm. Đó cũng là lý do mà Đức Giêsu nói với ông
Phêrô về Gioan: “Gỉa như Thầy muốn nó ở
lại cho đến khi Thầy đến, thì việc gì đến anh (Phê-rô)’’. Lời này đồn đại
trong các môn đệ là ông Gioan không phải chết! (x Ga 21,22-23)
5/ Mỗi khi ta được
rước lễ là rước Đức Giê-su Phục Sinh, còn là đón nhận lấy xương thịt của Đức
Maria đã được thần hóa. Con Thiên Chúa nếu không nhận lấy xương thịt
của Đức Mẹ, và xương thịt của Đức Mẹ không trở thành xương thịt của Đức Giêsu,
thì các Đấng không đem ơn cứu độ cho ai theo ý Cha trên trời ; Cũng thế, nếu
xương thịt của ta không trở nên một xương thịt với Chúa Giêsu, cũng là xương
thịt của Mẹ Maria, thì dù ta có sống tốt cỡ nào ta cũng không được ơn cứu độ,
và chẳng giúp ai được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vì thế mà trong Thánh Lễ
nào Linh mục cũng phải long trọng tuyên bố: “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô, và trong Đức Kitô, mọi chúc tụng
và vinh quang quy về Thiên Chúa” (Rm 11,36).
Vậy
ai được sinh ra bởi Chúa Giêsu, thì cũng được sinh ra bởi bà Maria, mới được ơn
giải phóng thoát án phạt của Lề Luật (x Gl 4,4-7: Bài đọc II). Đó “là dân được Chúa Trời dủ thương và chúc phúc’’
(Tv 67/66,2a: Đáp ca).
Truyện kể:
Cậu
Karol Wojtyla lên 7 tuổi, đứng bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở!
Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói: “Con
đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa, thì
người Mẹ thật của con là Đức Maria xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.”
Từ
ngày ấy, cậu Karol Wojtyla tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó
cũng là lý do quan trọng mà ngày 18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo
hoàng (Gioan Phao-lô II), đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong
mọi lãnh vực.
THUỘC LÒNG
Tin Mừng có ghi lại 6 lần Đức
Maria nói:
Ä
5 lần Mẹ nói với Chúa, nói về Chúa (x Lc 1,34 ; 1,38 ; 1, 40t ; 2,48 và Ga 2,3).
Ä
Chỉ có một lần Mẹ nói với loài người: “Chúa bảo gì, con cứ làm theo !’’ (Ga 2,5)
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH