BÀI GIẢNG
NGÔI
LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI
Lúc khởi đầu không bao
giờ qua đi đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa không lệ thuộc vào thời gian, Ngài
là sự sống sung mãn trường tồn. Lúc khởi đầu Thiên Chúa hướng về Con của Người,
vừa là hình ảnh, vừa là Lời của Chúa Cha (x Cl 1,15 ; Dt 1,3). Chính lúc khởi
đầu Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới và ban phát vinh quang phong phú từ nơi Cha
cho chúng, nhất là nơi loài người, để Chúa Cha chiêm ngắm vinh quang ấy nơi
Người Con của Người.
Để hiểu được Ngôi Lời
là Thiên Chúa, thánh Gioan giới thiệu về Con Thiên Chúa làm người, ta phải đặt
mình vào nền văn hóa Hy Lạp thời thánh Gioan. Nhiều triết gia Hy Lạp lý giải sự
hiện hữu của vũ trụ này là do một Logos, nhưng người ta hiểu không đồng nhất về
Logos:
- Theo triết gia Hê-ra-cơ-lít (-500), thì Logos là
một thực thể vĩnh hằng ở khắp mọi nơi, nhập vào lửa, là nhân tố nguyên thủy,
người ta chỉ sống hạnh phúc là nhờ sự khôn ngoan của riêng mỗi người.
- Theo phái Khắc Kỷ, thì Logos là nguyên lý thần linh nằm trong
vũ trụ, thực hiện sự duy nhất của vũ trụ. Logos như linh hồn của vũ trụ, thấm
nhập vào mọi sự. Logos ở trong con người dưới hình thức lý trí.
- Những người Do Thái ở Alexandria, cụ thể như ông Phi-lôn thì lại cho Logos là
trung gian giữa Thiên Chúa siêu việt và vũ trụ, là dụng cụ của Đấng Tạo Hóa, là
phương thế Chúa dùng để mạc khải. Logos còn là thượng tế, là trạng sư của thế
giới bên cạnh Thiên Chúa. Phi-lôn cho Logos là Thiên Chúa hạng thứ, là hình ảnh
của Thiên Chúa Tối Cao.
Những luồng tư tưởng
của nhân loại tìm hiểu nguyên lý của vũ trụ như trên, nói lên sự khao khát của
loài người đi tìm Đấng toàn năng, toàn thiện, toàn mỹ, vượt xa loài người.
Nhưng những cố gắng đó không làm cho ai được toại nguyện.
Thánh Gioan khi viết
Tin Mừng để giới thiệu Con Thiên Chúa làm người: Ngài là một Ngôi vị. Ông Gioan
đã “rửa tội” cho các quan niệm về Logos của nền triết lý Hy Lạp. Ý ông muốn nói: ai đang đi tìm nguyên lý của sự sống, của chân lý, tìm nguyên nhân sự hiện
hữu của muôn loài trong vũ trụ, qua các ý niệm về Logos của nền triết lý Hy Lạp,
thì đều mang tính đa thần khác hẳn với niềm tin Ki-tô giáo là độc thần. Thánh
Gioan cho biết Logos chính là Ngôi Lời làm người, Ngài là Đức Khôn Ngoan, là
một Ngôi Vị trong Thiên Chúa, có trước vạn vật tác thành vũ trụ, điều khiển và
hướng dẫn muôn loài (x Cn 8,22-26). Con Thiên Chúa làm người, Ngài đáp ứng mọi
khát vọng thiện hảo của loài người, Ngài không phải là một thụ tạo như Hê-ra-cơ-lít
hiểu, Ngài không phải là hồn của vũ trụ như phái Khắc Kỷ hiểu, Ngài cũng không
phải là Thiên Chúa hạng thứ như Phi-lon hiểu, mà Ngài là Lời Thiên Chúa từ
nguyên thủy đã tạo dựng vũ trụ (x St 1). Vào thời Ngài thực hiện ơn cứu độ để
làm hoàn hảo công trình tạo dựng thuở ban đầu, Lời nguyên thủy tạo dựng ấy nay
đã trở thành xương thịt của loài người, thành một hữu thể, một Ngôi vị, Ngài
vừa có bản tính loài người, vừa có bản tính Thiên Chúa, Ngài từ Chúa Cha đến
thế gian, nên ai thấy Ngài là Chúa Cha, Ngài nói như Cha, Ngài làm như Cha,
Ngài đồng bản thể với Cha là Thiên Chúa (x Ga 10,30 ; 14,5-11), không có Ngài
không có gì thành sự và được tồn tại (x Ga 1,1-3).
Do đó thánh Gioan lên
án : Ai không tin vào Con Thiên Chúa làm người, là Đức Giêsu Kitô như Hội Thánh
tin, thì nó là phản Kitô, sự thật, sự sống không có nơi kẻ ấy, nó không thuộc
về đoàn chiên của Ngài chăm sóc, nên nó cũng không thông hiệp với các Kitô hữu
(x 1Ga 2,18-21 : Bài đọc).
Thực vậy.
F Các triết gia đại
diện cho giới trí thức, cũng chỉ mò mẫm đi tìm chân lý. Nhưng chỉ ai có tâm
khao khát chân lý mới đón nhận được mạc khải của Thiên Chúa, để dẫn dắt tâm tư
và hành động của mình đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu.
F Sự sống nơi tạo vật
là sự sống được Chúa sáng tạo, nó không phải là sự sống tự tại, không phong
phú, không bất tận như Thiên Chúa là Sự Sống. Bởi thế, bất cứ ai muốn tham dự
vào Sự Sống dồi dào của Thiên Chúa, cần phải hiệp thông với Chúa Giê-su Thánh
Thể, là Ngôi Lời đã làm người.
F Nhìn vào cơ cấu Tin
Mừng Gioan, trong 18 câu đầu của chương 1, ông đã diễn tả chương trình cứu độ
của Con Thiên Chúa như một Parabol :
- Ngôi Lời ở nơi cao
nhất, là Chúa Tể muôn loài (Ga 1,1).
- Ngôi Lời xuống thấp
nhất trở nên người phàm cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14).
- Ngôi Lời về cùng Cha
để lôi kéo vạn vật lên với Ngài (Ga 1,18).
Vậy Ngôi Lời biết rõ
chúng ta nhất, giống như một người muốn biết rõ một địa danh,người ấy phải ở
nơi cao nhất để quan sát tường tận, đồng thời người ấy phải xuống nơi thấp nhất
khu vực mình quan sát có thế mới triệt để quán xuyến được mọi vấn đề nơi địa
danh mình quan tâm. Rõ ràng thánh Gioan đã diễn tả Con Thiên Chúa ở trên trời
nơi cao nhất (Ga 1,1) ; Ngài “nhảy dù” xuống thung lũng thế gian (Ga 1,14), rồi
Ngài lôi kéo con người lên cùng Thiên Chúa, thậm chí còn được đồng hóa với Ngài (Ga 1,18).
F Khi Lời còn là ngôn ngữ,
còn là ý tưởng, thì Lời giam chúng ta trong tội, chỉ khi Lời trở thành xương
thịt của ta: nghe Lời suy gẫm và thực hành, rồi đến hiệp thông Thánh Thể, lúc
đó từ nguồn sung mãn của Ngôi Lời, chúng ta mới đón nhận được hết ơn này đến ơn
khác (Ga 1,16).
F Chúa cắm lều ở giữa
chúng ta, thánh Gioan nhắc đến chiếc lều ở đây cho chúng ta nhớ lại dân Do Thái
trong thời gian bỏ Ai Cập tiến về Đất Hứa, họ làm Lều Hội Ngộ để đặt hai Bia Đá
Lời Chúa, có mây bao phủ, khi cột mây bốc lên di chuyển, thì dân Do Thái nhổ
lều đi theo áng mây như chiếc dù che chở dẫn họ đi, giúp họ thoát tay kẻ thù
gặp trên đường (x Xh 33,7-11; 40,34-36). Ngài “cắm lều” giữa chúng ta cũng là nhắc lại ba môn đệ Phêrô, Giacôbê,
Gioan được Chúa dẫn vào vinh quang trên núi Hiển Dung, họ muốn cắm lều ở lại
hưởng vinh quang Thiên Chúa, không muốn trở xuống núi với thế gian (x Mt 17),
nhưng Ngài không cho phép, vì Ngài muốn xuống núi chấp nhận cái chết để làm
trọn ý Cha, và từ cõi chết sống lại Ngài hoàn tất Phụng Vụ mới thay thế Phụng
Vụ Do Thái giáo, lúc đó Ngài mới thực sự “cắm lều” trong tâm hồn những kẻ hiệp
dâng Thánh Lễ với Ngài, hầu được Ngài dẫn dắt, ủng hộ ta như gà mẹ ấp ủ đàn con
dưới cánh (Lc 13,34), như lũ chiên con được mục tử ấp ủ vào lòng (Is 40,11).
Được như thế mới có lý do chúng ta cất lời kinh:
“Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển
gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, cả cây cối rừng xanh, hãy
reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến” (Tv 96/95,11-12b.13a : Đáp
ca).
* CÓ THỂ SUY NIỆM THÊM
C “Lúc khởi đầu đã có Lời” (Ga 1,1a) : Lời từ
thuở ban đầu sáng tạo vũ trụ, nay xuất
hiện để hoàn tất công trình đã được sáng tạo thuở ban đầu.
C “Ngôi Lời vẫn hướng về
Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu Người vẫn hướng về Thiên
Chúa” (Ga 1,1b-2) : Ngôi Lời là Thiên Chúa, chính Ngôi Lời lôi kéo ta
về với Thiên Chúa, bởi vì loài người đã lạc xa Thiên Chúa. Loài người vốn được
sinh ra từ dòng giống Adam, Evà, đã bất trung với Thiên Chúa. Dòng giống này sau
khi phạm tội, luôn tìm đường lẩn trốn Thiên Chúa (x St 3,8).
C “Nhờ Ngôi Lời vạn vật
được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được
tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1,3-4) : Ngôi
Lời sáng tạo vạn vật, vì vạn vật được hiện hữu là do bởi Ngôi Lời, không có
Ngài thì chẳng có gì thành sự, dù nhờ Ngài mà sự sống đã xuất hiện nơi thụ tạo.
Sự sống ấy bị tử thần “xơi tái”. Nhưng nhờ Ngôi Lời là ánh sáng dẫn đưa nhân
loại vào hiệp thông với sự sống của chính Thiên Chúa trong Chúa Giê-su Ki-tô,
là sự sống viên mãn, vinh quang, vĩnh cửu, đó mới là sự sống Thiên Chúa muốn
tặng ban riêng cho loài người, nhờ, trong Chúa Giê-su Ki-tô.
C “Ánh sáng chiếu soi
trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1,5): Ngôi Lời
là ánh sáng diệt bóng tối (tội, sự chết). Vì Ngài là ánh sáng rọi thấu tâm hồn
mọi người, để ai cũng nhận biết mình có tội (x Rm 7,7), nảy sinh lòng sám hối và
chạy đến cùng ánh sáng, để bóng tối tội lỗi bị diệt trừ, và nhờ thông hiệp với
Ngôi Lời thì được chia phần sự sống phục sinh vinh hiển, sự sống thật nơi Thiên
Chúa hằng sống (x Ga 11,25-26).
C “Có một người được Thiên
Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để
mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm
chứng về ánh sáng” (Ga 1,6-8): Ông Gioan Bt cũng được coi là ánh sáng, nhưng ánh
sáng của ông chỉ là ngọn đèn leo lét (x Ga 5,35), không thể sánh với ánh sáng Mặt Trời Công Chính là Đức Giê-su
Ki-tô, là ánh sáng viên mãn phát sinh sự sống, như ánh sáng mặt trời soi cho
nhân loại đang ngồi trong bóng tối sự chết, hướng dẫn dân Ngài đi thẳng tới
bình an (x Lc 1,78-79).
C “Ngôi Lời là ánh sáng
thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9): Chỉ có
Ngôi Lời là ánh sáng dẫn ta vào chân lý, để ta thoát ra khỏi thế gian tràn ngập
gian dối, bởi thế ai ở trong thế gian là sống trong gian dối, không có sự thật.
C “Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người” (Ga 1,10): Ngôi Lời
đã trở nên xác phàm, để cho ta cùng một xương thịt với Ngài (x Dt 2,11), nhờ
vậy mà Ngài nâng đỡ ta đang chới với giữa thế gian, Ngài còn dẫn dắt bảo tồn
những gì Ngài đã tạo dựng. Nhưng tạo vật lại không nhận biết bởi đâu mà mình
hiện hữu và tồn tại, trừ khi nó được hiệp thông nên xương thịt với Ngôi Lời làm
người.
C “Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11) : Ngôi Lời nhập thể sống kiếp
người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi, để cảm thông được mọi nỗi đau khổ của
nhân loại, biết mọi khát vọng của loài người, nhất là đối với người nhà của
Ngài là dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn, để từ dân tộc này ơn cứu độ được
ban tặng cho thế gian (x Ga 4,22). Thế mà người nhà của Ngài – dân Ngài tuyển
chọn – lại không đón nhận Ngài.
C “Còn những ai đón nhận,
tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên
Chúa. Họ được sinh ra không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục
thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa” (Ga 1,12-13): Ai
đón nhận được Ngôi Lời làm người là Đức Giêsu Kitô, thì họ được tái sinh không
do xác thịt của loài người, nhưng do chính Chúa Giêsu (x Cv 2,38), để họ biết
yêu thương và phục vụ cả kẻ đối nghịch, hầu được trở nên con Thiên Chúa, đồng
danh, đồng vị với “Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32 = Lc 6,35).
C “Ngôi Lời đã trở nên
người phàm, và cư ngụ (cắm lều) giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh
quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân
sủng và sự thật” (Ga 1,14): Lời Thiên Chúa không còn là một ý tưởng, không còn
là một lý tưởng, không còn là ngôn từ, nhưng Lời đã trở nên một Ngôi vị như mọi
người, Ngài đã “cắm lều” giữa chúng
ta, dẫn đưa ta vào sự sống vinh quang sung mãn của Ngài trong Chúa Cha, khi
Ngài tự hiến mình làm Hy Tế trên thập giá, chính lúc đó Ngài tự hạ trở nên kẻ
thấp hèn nhất trong loài người, để chuộc lại nơi Cha Ngài những ơn đã ban cho
loài người, vì phạm tội, mà ma quỷ đã tước đoạt, và Ngài còn ban cho họ những
ơn phong phú hơn thuở ban đầu, hầu mọi miệng lưỡi tôn vinh danh Ngài là Đức
Chúa, mọi đầu gối phải bái thờ Ngài (x Pl 2,6-11). Xưa kia dân Do Thái, ai mà
thấy Thiên Chúa thì không sống nổi (x Xh 33,20), trái lại, trong Chúa Giê-su, con
người được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa, và còn được hiệp thông với sự
sống sung mãn của Ngài. Đó là mục đích Ngôi Lời đã làm người để cứu nhân loại,
và nâng con người lên hàng thần thánh, đến nỗi được đồng danh với Thiên Chúa (x
Ga 10,34-35).
C “Ông Gioan là chứng về
Người, ông tuyên bố: "đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi
hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1,15) : Ông Gioan Tẩy Giả được mọi người
tôn vinh, cả đến Đức Giêsu cũng khen ông là người cao cả nhất sinh ra bởi
người nữ (x Mt 11,11), nên nhiều người
tưởng ông là Đấng Mêsia (x Lc 3,16), vì thế ông Gioan vội vàng cải chính: Đấng
mà tôi nói đến – Đức Giêsu – Người đến sau tôi – thua tôi sáu tháng tuổi –
nhưng Ngài trổi vượt hơn tôi vì Ngài là Thiên Chúa, Ngài có trước tôi.
C “Từ nguồn sung mãn của
Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế, Lề Luật đã
được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu
Kitô mà có” (Ga 1,16-17): Thuở xưa, Luật Chúa ban cho dân qua ông Môsê vẫn
còn giam người ta trong tội lỗi (x Gl 3,22), vì ai cũng bất lực chu toàn Lề
Luật: điều xấu Luật cấm, ít nhiều đã vi phạm; điều tốt Luật dạy, không ai làm
hoàn hảo. Luật chỉ có giá trị dẫn ta đến gặp Đức Giê-su, Đấng giải phóng mọi
người khỏi án phạt của Luật (x Gl 3,24), tức là khi ta được hiệp thông với
Ngài, nhờ Ngôi Lời ta nhận biết tội mình (x Rm 7,7), sinh lòng sám hối vì tội
đã phạm và trông cậy vào lòng thương xót của Ngài, thì không thua anh trộm lành
được Đức Giêsu cho vào Thiên Đàng ngay chiều Thứ Sáu Tuần Thánh mà không phải
đến tòa phán xét (x Lc 23,40-43), nhất là nhờ thông hiệp với Ngài trong Bí tích
Thánh Thể, ta được nhờ Ngài, với Ngài, trong Ngài (x Rm 11,36) ra đi phục vụ
đồng loại, mới xứng đáng được Ngài ban cho hết ơn này đến ơn khác, vì “ngoài danh Đức Giêsu, dưới gầm trời này
không có danh nào khác để người ta kêu cầu hòng được cứu độ” (x Cv 4,12).
C “Thiên Chúa, chưa bao
giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung
lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18): Hết thảy những ai đón nhận được
Đức Giêsu Kitô, thì được Thánh Thần ghi
tạc Lời vào tấm linh hồn và thân xác (x 2Cr 3,3), hơn xưa Chúa ghi Lời trên tấm
đá trao cho ông Môsê, đến thời Thiên Chúa cứu độ, thì Lời trên tấm đá đó không
cần nữa (x Gr 31,33). Bởi vì Lời ghi trên tấm linh hồn và thân xác ta, mới làm
cho trái tim ta được nên giống trái tim Chúa Giêsu (x Ed 36,26), đến nỗi ta được nên đồng hình đồng dạng với Con
Thiên Chúa (x Gl 2,20). Như thế, ta là kẻ thấp hèn được nâng cao tuyệt đỉnh nhờ
Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã trực tiếp tỏ cho ta biết về
Thiên Chúa.
THUỘC LÒNG
Từ nguồn sung mãn của Đức Kitô Giêsu tất cả chúng ta đã
lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (Ga 1,16)
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE ĐINH
QUANG THỊNH