BÀI GIẢNG
SỐNG
GIỚI RĂN YÊU
Con người được dựng
nên giống hình ảnh của Thiên Chúa (x St 1,26), mà Thiên Chúa là Tình Yêu (x 1Ga
4,8), bởi thế sống đạo để giống Thiên Chúa chính là sống yêu, như Thiên Chúa
yêu con người. Cùng đích sứ điệp của các ngôn sứ cũng chỉ nhắm dạy người ta
biết sống yêu: Yêu Chúa và Yêu người. Do đó, thánh Gioan nói: “Đó là giới răn cũ”, cũ là vì từ muôn
thuở Chúa muốn con người phải sống yêu (x 1Ga 2,7: Bài đọc).
Để cụ thể sống yêu,
thánh Gioan nhắc nhở ta sống hai điều :
-
Yêu Thiên Chúa là giữ
Luật Chúa (x 1Ga 2,3-6: Bài đọc).
-
Yêu người là phục vụ
toàn diện nhu cầu xác hồn của đồng loại (x 1Ga 2,9-11: Bài đọc)
1/ YÊU
THIÊN CHÚA LÀ GIỮ LUẬT CHÚA
Thánh Gioan nói: “Chúng ta nhận biết rằng ta biết Thiên Chúa: đó
là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người…Hễ ai giữ Lời Người dạy, tình yêu
của Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo. Ai nói rằng mình ở lại trong Người, thì
phải đi trên con đường Đức Giê-su đã đi” (1Ga 2,3.5-6: Bài đọc).
Thế nào là giữ Luật Thiên Chúa để đạt Đức Ái ?
Chúng ta biết mục đích của Luật chỉ nhắm điều công bằng.
Ví dụ: “Ai móc ta một mắt, ta có quyền móc lại nó một mắt ; nó đánh
gãy ta một răng, thì ta có quyền bẻ gãy một cái răng của nó” (x Mt 5,38).
Sống điều Luật dạy như
thế, chẳng ai bị thiệt, chẳng ai có lợi, và chẳng hơn gì lương dân, hay kẻ tội
lỗi ? Thực vậy, Đức Giêsu đã nói: “Nếu
các ngươi chỉ yêu thân nhân và ghét thù địch, thì có hơn gì dân ngoại, các
ngươi chỉ làm ơn cho bạn bè và cho vay hòng được lấy lại, thì có hơn gì kẻ tội
lỗi, họ cũng làm như vậy. Các ngươi hãy nên hoàn hảo như Cha các ngươi Đấng ngự
trên trời, Ngài làm mưa làm nắng trên kẻ bất lương và người công chính” (Mt
5,43-48).
Vậy “ai thực
hành Lời Chúa, thì tình yêu của Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo nơi người ấy”
(1Ga 2,5: Bài đọc). Mà đã yêu Thiên Chúa thì phải làm hơn điều Luật dạy. Cụ thể ông Giakêu,
lúc đón Chúa vào nhà, ông tự nguyện bán tất cả gia tài chia cho kẻ nghèo một
nửa, phần còn lại ông đền gấp bốn cho bất cứ ai ông đã làm thiệt hại, chẳng có
Luật nào dạy ông Gia-kêu phải làm như thế, ông đã làm hơn điều Luật dạy. Chính
vì vậy mà Đức Giê-su lên tiếng khen và xác nhận: “Hôm nay, cả nhà ông được ơn cứu
độ. Vì người này mới thực là dòng giống của Abraham” (Lc 19,1-10). Cả
đến gia đình thánh Gia Thất tại Nadareth: Đức Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse,
cả ba Đấng cũng làm hơn điều Luật dạy, trong Tin Mừng hôm nay tác giả Luca nhắc
đi nhắc lại bốn lần: “Ông bà làm như thế là để làm trọn Luật Chúa dạy” (x
Lc 2, 22.23.24.27).
-
Đức Giê-su: Khi lên 12 tuổi, Ngài đã đi dự Lễ ở đền thờ
Giê-ru-sa-lem, trong khi đó Luật dạy người ở xa Đền Thờ quá một ngày đường, và
chưa đến tuổi 13, thì không buộc phải lên Đền Thờ dự Lễ (x Xh 23,14-17), nhất
là khi cuộc lễ đã kết thúc, mọi người đã ra về mà Ngài còn trốn cha mẹ ở lại
Đền Thờ dạy giáo lý (x Lc 2,41t).
-
Thánh Giuse và Đức Maria: Các đấng cũng giữ Lề
Luật hơn điều đã quy định. Cụ thể, theo sách Lê-vi 12, 2-6 chỉ buộc người mẹ
sau khi sinh con trai bị ô uế 7 ngày, rồi 33 ngày sau mới được thanh tẩy máu ;
hoặc nếu sinh con gái thì bị dơ 14 ngày, rồi 66 ngày sau mới được thanh tẩy máu.
Như thế sinh con gái thì dơ gấp đôi sinh con trai. Có nghĩa là nếu sinh con
trai thì sau 40 ngày, nếu sinh con gái thì sau 80 ngày người mẹ phải lên Đền
Thờ để được thanh tẩy. Chứ không có Luật nào buộc người cha phải lên Đền Thờ
thanh tẩy sau khi có con được sinh ra, và “Luật
không lập ra cho người công chính, nhưng cho hạng phi pháp và loạn tặc, vô đạo
và tội lỗi, bất lương” (1Tm 1,9). Trong khi đó ông Giuse là người công
chính (x Mt 1,19), và Đức Maria sinh Con bởi phép Chúa Thánh Thần, chứ không
sinh Con theo thói đời để phải mắc uế, bởi đó Mẹ được gọi tên là “Đầy Ơn Phúc”,
vì có Chúa ở cùng (x Lc 1,28). Thế mà tác giả Luca lại ghi: “Khi đã đủ thời gian (40 ngày hoặc 80
ngày sau khi sinh con) đến ngày các ngài (Giuse và Maria) phải được thanh tẩy theo luật Môsê, bà
Maria ông Giuse đã đem Con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa theo Luật đã
dạy” (Lc 2, 22-23: Tin Mừng).
Vậy các đấng được
thanh tẩy phải hiểu đó là dấu chỉ loài người muốn được thanh tẩy phải lên Đền
Thờ gặp Chúa Giêsu mà cha mẹ Ngài đã tiến dâng.
Nếu người Công Giáo,
từ giáo sĩ đến giáo dân chỉ giữ đúng Luật Hội Thánh buộc, làm sao diễn tả lòng
mến Chúa và yêu người ? Ví dụ: Luật chỉ buộc Linh mục phải giảng trong các Lễ Chúa nhật và Lễ Trọng, nên ngày thường Linh
mục dâng Lễ không giảng ; còn ngày trong tuần Luật không buộc giáo dân phải đi
dự Lễ, nên ai cũng chỉ đi Lễ Chúa nhật và Lễ Trọng mà thôi ! Luật cũng chỉ buộc
tín hữu rước Lễ vào mùa Phục Sinh, nên người tín hữu chỉ rước Lễ một lần trong
mùa Phục Sinh. Thế thì giáo sĩ và giáo dân cử hành Phụng Vụ hay tham dự Phụng
Vụ như thế có phải vì yêu Chúa không ? Trong khi đó Chúa nói: “Ta
muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, Ta ưa việc nhận biết Thiên Chúa hơn là của
lễ toàn thiêu” (Hs 6,6).
Ta hãy noi gương bắt
chước ông Simêon, là người công chính và sùng đạo, những ngóng đợi niềm an ủi
của Israel, nên ông được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào Đền Thờ trong ngày Đức
Giêsu được cha mẹ đem dâng cho Thiên Chúa, và ông được Chúa Thánh Thần cho biết
Hài Nhi đó là Đấng Cứu Thế, ông đã bồng ẵm Hài Nhi trong niềm hân hoan sung
sướng, ông cảm thấy không còn niềm vui nào lớn lao hơn, ông đã được toại
nguyện, không điều gì hấp dẫn đối với ông, nên ông chỉ muốn được về với Chúa
ngay, không để vụt khỏi tay ơn huệ quý báu này, như lời ông nói: “Muôn
lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ. Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh
sáng soi đường cho dân ngoại,là vinh quang của Irrael Dân Ngài." (Lc
2,29-32: Tin Mừng). Điều này ông Simêon đã làm mẫu cho ta lên Đền Thờ dự tiệc
Thánh Thể, sau khi ta rước Lễ, cũng phải có tâm tình tri ân Chúa như lúc ông
Simêon bồng ẵm Hài Nhi trên tay. Hội Thánh đã mượn lời cầu của ông Simêon để
dạy ta cầu nguyện trong giờ Kinh Tối (Kinh Phụng Vụ). Do đó, nếu mỗi ngày ta
không rước Lễ, không ôm Chúa vào lòng như ông Simêon, mà đêm Chúa lại gọi ta ra
khỏi thế gian, hỏi Đấng nào dẫn ta ra đi bình an?
2/ YÊU NGƯỜI LÀ PHỤC VỤ TOÀN DIỆN
NHU CẦU XÁC HỒN CỦA ĐỒNG LOẠI (x 1Ga 2,9-11: Bài đọc)
Thánh Gioan nhắc nhở
các tín hữu: “Ai nói rằng mình ở trong
ánh sáng: trong Chúa Giê-su, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng
tối tội lỗi. Ai yêu thương anh em mình, thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người
ấy không có gì nên cớ vấp phạm” (1Ga 2,9-10: Bài đọc). Mà “yêu anh em không phải chỉ bằng đầu môi chót
lưỡi, nhưng là bằng việc làm thực sự”
(1Ga 3,18). Việc làm của Đức Ái phải ưu tiên chăm sóc linh hồn đồng loại, dù
phải mất mạng mình, chứ không chỉ dừng ở việc lo cho nhu cầu thân xác của anh
em. Cách phục vụ thể hiện Đức Ái này không ai làm mẫu cho chúng ta ngoại trừ
Chúa Giêsu. Chính vì vậy mà ông Simêon đã báo trước cho cha mẹ Đức Giêsu biết
về sứ mệnh Hài Nhi: “Này ! Ngài có mệnh
làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên
chống đối – và hồn bà, mũi gươm sẽ đâm thâu – ngõ hầu ý nghĩa của nhiều tâm hồn
phải bày ra” (Lc 2,34-35: Tin Mừng).
Lời ông Simêon tiên
báo về Hài Nhi như thế, 33 năm sau đã ứng nghiệm: Khi Con bà Maria bị treo trên
thập giá, Ngài đã tắt thở mà kẻ ác vẫn không buông tha, chúng lấy giáo đâm nát
tim Ngài, nước và máu còn chút ít trong tim dốc ra hết ! (x Ga 19,31-37) Lúc
ấy, Đức Giêsu không còn cảm thấy đau đớn gì, vì Ngài đã chết, nhưng Mẹ Maria
đứng nhìn Con bị đâm, chắc chắn Mẹ đau đớn vô cùng! Mẹ đã hứng chịu Lời Chúa
chúc dữ cho bà Eva: “Bà sinh con đau” (St 3,16), và như thế: “Lời kẻ thóa mạ Ngài này chính con hứng chịu”
(Tv 69/68,10b).
Nói cách khác, sự đau
khổ của Mẹ được cộng tác với đau đớn của Con, không miệng lưỡi nào tả cho xiết.
Nhưng chính lúc đó, Lời tiền Tin Mừng Chúa hứa cứu dòng tộc Adam, Eva thoát nô
lệ satan, thì :
-
Chúa Giêsu làm ứng nghiệm: “Dòng giống người đàn bà sẽ đạp nát đầu rắn
satan” (St 3,15: bản văn 70 bằng tiếng Hy Lạp).
-
Đức Maria là Hội Thánh viên mãn làm ứng nghiệm: “Chính người đàn sẽ đạp nát đầu rắn satan”
(St 3,15 – bản văn Vulgata bằng tiếng La Tinh).
Như thế, Đức Giê-su,
Con Mẹ Maria, suốt một đời phục vụ đã làm biết bao nhiêu phép lạ cứu người: cho
kẻ đói ăn, chữa lành nhiều bệnh nhân, trừ quỷ xuất khỏi nhiều người, cho kẻ
chết sống lại, cuối đời được nhận lại sự thù oán của những kẻ đã thụ ơn, nhưng
Đức Giê-su cũng như Mẹ Maria đã biết
trước sự phũ phàng đó ngay từ lúc Mẹ dâng Con vào Đền Thờ, để rồi nhờ sự đau
khổ cực độ này, cả hai Mẹ Con đã dâng hiến cho Chúa vì yêu nhân loại, hầu mọi
người được ơn cứu độ trọn vẹn cả hồn lẫn xác.
Do đó, nếu ta phục vụ
đồng loại mà chỉ nhắm sẽ được đền ơn, ta không thể giống Chúa và Mẹ. Nếu Mẹ
Maria không kết hợp mật thiết với Đức Giêsu, và nếu Đức Giêsu không phải là
xương thịt của Mẹ, thì việc phục vụ của cả hai Mẹ Con chẳng thực hiện ý Cha
trên trời để cứu độ muôn người.
Vậy nếu ta không kết
hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, xương thịt của ta không phải là xương thịt của
Mẹ, cũng không phải là xương thịt của Chúa Giêsu Phục Sinh, nếu ta chỉ lấy lòng
tốt của mình phục vụ đồng loại, thì đó chỉ là nhân bản không phải là đức ái, đó
chỉ là việc của loài người, nếu có giá trị cũng sẽ tan biến thành tro bụi ;
nhưng nếu ta cùng kết hợp với Chúa Giêsu và Mẹ Maria để phục vụ đồng loại, thì
đó là việc của Thiên Chúa, mới thực là đức ái Kitô giáo, làm vinh hiển Chúa,
đem ơn cứu độ cho ta cũng như cho mọi người (x Cv 5,38-39). Được như thế ta mới
làm cho: “Trời vui lên đất hãy nhảy mừng”
(Tv 96/95,11a: Đáp ca). Vì “Đức Kitô là
ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Chúa” (Lc 2,32: Tung
Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng: trong Chúa Giêsu, mà lại
ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối tội lỗi. Ai yêu thương anh em
mình, thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm (1Ga 2,9-10)
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE ĐINH
QUANG THỊNH