BÀI GIẢNG
MẦU NHIỆM ĐỨC MARIA
A. LỊCH SỬ LỄ MÂN CÔI.
Phần lịch sử này dựa trên các tài liệu dưới đây:
-
M.Gorce
La Religion Poétique Populaire du Moyer Age.
Trong tập Histoire général des religions tome Christiamisme nedieval
Aritide Quillet, Paris
1947 tr 51-71.
-
Marcel
Mahé aux sources de notre Rosaire suppléments de la vie Spiritualle 1951 tr
101-120)
1/ TẠI SAO KINH KÍNH
MỪNG LẠI GỌI LÀ KINH MÂN CÔI (HOA HỒNG) ?
Từ thế kỷ thứ 11 về trước, Hội
Thánh không đọc kinh Kính Mừng. Kinh Kính Mừng phát sinh từ lòng đạo đức bình
dân của quần chúng. Thực vậy, từ thế kỷ thứ 11 đến 13, những nhà quý phái đua
nhau xây những đại Giáo Đường nguy nga, các hiền triết, các nhà thần học đua
nhau xuất bản những pho sách về thần học, về đạo đức dày cộm. Tất cả những hiện
tượng ấy nói lên phần nào lòng mến, lòng đạo đức của Hội Thánh trong thời kỳ
hoàng kim. Thế thì giới bình dân họ phải làm gì ? Họ nảy sinh ra một sáng kiến là
thi nhau hái hoa hồng kết thành những vòng hoa, cùng với những bài thi ca bình
dân nói lên niềm vui của ơn cứu độ. Nếu việc hái hoa hồng trải qua những khó khăn vì gai góc,
nhưng lại nói lên loài hoa biểu tượng cho một niềm vui dạt dào và cao thượng,
thì đó không phải là tâm tình đạo đức của người bình dân biểu tượng cho ơn cứu
độ trải qua thập giá đến vinh quang, mà Hội Thánh đang trong thời kỳ phồn thịnh
đó hay sao? Người ta còn tìm thấy một vài kinh cổ nói lên niềm vui hoa hồng của
ơn cứu độ.
Thí dụ :
C Lời kinh của cộng đoàn Avignon :
“Hoa chóng tàn, vui trần thế mau
qua,
Ta hãy hái hoa dâng Mẹ hiền,
Để mai sau được hưởng phúc vinh,
Hoa hồng thiêng chẳng khi tàn,
Mẹ là bông hoa là vườn hồng,
Mẹ là đấng nơi đó ngự trị,
Sự dịu dàng vượt trên mọi dịu
dàng,
Mẹ là đấng nơi đó bừng nở,
Sắc đẹp chẳng tàn phai”.
C Bài
dân ca Đức :
“Người ta gọi Mẹ là vườn hồng,
thật là chí lý.
Tất cả các con hãy đến cùng Mẹ, Mẹ
sẽ nhận lời các con”.
Như vậy truyền thống dâng hoa đã
khởi đi từ lòng đạo đức của giới bình dân vào những thế kỷ này…
Câu chuyện truyền khẩu về anh lái
buôn có lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn được cùng với mọi người hái hoa kết
tràng dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền
nghĩ ra một cách làm bù trừ, là thay vì hái hoa đưa đến Nhà Thờ dâng Mẹ, nói
lên niềm vui cứu độ loài người, nhờ Đức Mẹ khởi đầu từ biến cố Truyền Tin, anh
đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin cho Đức Mẹ, cũng là
ngày khơi mào ơn cứu độ cho cả nhân loại. Anh nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những
lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ. Sáng kiến ấy dần dần đã
lan rộng tới nhiều người, không những đối với những người bận rộn, không đến
Thánh Đường được, mà còn cả với những người có điều kiện hái hoa hồng dâng Mẹ.
Vì dầu sao việc đọc những lời đó vẫn mang nội dung niềm vui sâu sắc hơn là cử
chỉ bên ngoài hái hoa hồng dâng Mẹ.
Đó là gốc tích người ta gọi kinh
Kính Mừng là kinh Mân Côi.
2/ TẠI SAO LÀ CÓ TRÀNG
HẠT GỒM NĂM NGẮM?
Cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu
gốc tích của tràng hạt từ những tôn giáo nào ảnh hưởng qua, bởi vì không phải
chỉ có Công Giáo có tràng hạt, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên, con
số năm ngắm được tương ứng với năm lễ lớn trong Phụng Vụ : Truyền Tin, Giáng
Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.
3/ TẠI SAO LẠI CÓ
TRÀNG HẠT MƯỜI LĂM NGẮM ?
Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh
(1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng
Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở mồ lạnh,
nhưng phải đạt tới sống lại vinh quang để lên Trời. Nỗ lực của thánh Vinh Sơn
Ferrier dường như đã không thành công, vì không được phổ biến sâu rộng trong
Giáo Hội, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi có thể diễn tả được niềm vui
này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ qua chữ “KAIRE”
mà sứ thần chào Đức Ma-ri-a.
Để nói trọn niềm vui ơn cứu độ ấy,
người ta thấy không thể giản lược vào năm lễ lớn của năm ngắm đã có sẵn. Cho
nên Đan Viện Sallay ở thế kỷ 13 lại nghĩ đến nhiều biến cố khác trong chương
trình cứu độ, để tương xứng con số 15 : Sinh Nhật Đức Mẹ, cuộc đời Đức Mẹ,
Truyền Tin cho Đức Mẹ, Đức Mẹ thụ thai, Đức Mẹ Thăm Viếng, Đức Mẹ sinh Chúa
Giê-su, Ba vua đến triều bái Hài Nhi, Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền Thờ, Đức Mẹ
tìm thấy Chúa Giê-su trong Đền Thờ, dấu lạ Cana có Mẹ can thiệp, Đức Mẹ đứng
dưới chân thập giá, Phục Sinh, Thăng Thiên, Hiện Xuống, Đức Mẹ lên Trời.
4/ TẠI SAO LẠI CÓ BA
MÙA VUI – THƯƠNG – MỪNG ?
Cách chia này do Alain de la Roche
(1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569.
Như đã nói kinh Kính Mừng là niềm
vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui) ; Tử Nạn
(Thương) ; đến sống lại vinh quang (Mừng).
Ta để ý dù đọc ba Mùa với mầu
nhiệm khác nhau, nhưng trong mỗi Mùa, kinh Kính Mừng đã không lấy một phần
tương ứng với mầu nhiệm Thương và Mừng, mà chỉ lấy một đoạn Thánh Kinh tương
ứng với mùa Vui (mầu nhiệm Nhập Thể). Điều này không cho phép chúng ta phải
nghĩ rằng muốn được hưởng niềm vui ơn cứu độ, con người phải sống mầu nhiệm
Ngôi Lời Nhập Thể hay sao ? Bởi vì nếu ta chỉ nói Chúa Giê-su đã chết và Phục
Sinh để cứu ta, thì đó mới chỉ là nặng phần pháp lý, cho dù Chúa Giê-su đã chết
và Phục Sinh, mà chúng ta không để cho Lời Chúa nhập thể, hay chúng ta không
sống Lời Chúa, thì việc chết và Phục Sinh của Chúa Giê-su đâu có cứu nổi chúng
ta!
5/ TẠI SAO ĐỌC 15O
KINH ?
Từ trước Công Đồng Vat.II, Hội Thánh
đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham dự giờ kinh này.
Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong lịch sử. Thí dụ ta
đọc Tv 51/50,7 : “Từ trong lòng mẹ tôi đã
là kẻ bất lương”, thì chúng ta liên tưởng ngay đến con cái của bà Thamar
tranh nhau quyền trưởng nam ngay trong lòng mẹ ( x St 38).
Như thế, đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ
Thánh Kinh, suy gẫm toàn bộ biến cố mạc khải.
Vậy người giáo dân không có điều
kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói : Niềm vui
ơn cứu độ do Đức Maria khai mào đã được trải rộng toàn bộ kho tàng mạc khải.
6/ THÁNH ĐA MINH VỚI
KINH KÍNH MỪNG.
Người ta vẫn truyền tụng phép lạ Đức
Mẹ trao tràng hạt cho thánh Đaminh cổ võ, nhưng thực ra phép lạ này có lẽ phát
xuất từ lòng sùng kính và cổ võ kinh Mân Côi hơn là chứng tích lịch sử. Về
phương diện lịch sử thì không ai chối cãi thánh Đaminh có công lớn trong việc
cổ võ lòng sùng kính kinh Mân Côi, bởi vì vào thế kỷ 13 trước hiểm họa của bè
rối Albigeois, thì việc canh tân và cổ võ lòng sùng kính kinh Mân Côi như một liều thuốc chữa trị bệnh thời đại. Ta
biết bè rối Albigeois chủ trương thuyết
Nhị Nguyên, nghĩa là trong vũ trụ có hai nguyên nhân : sự ác và sự thiện
luôn luôn đấu tranh và dày vò con người, con người không còn tự do để chọn lựa,
và người ta thấy cuộc đời là bao trùm một sự bi đát, bởi vì ai cũng cảm thấy kể
cả thánh Phao-lô : “Điều tốt tôi muốn,
tôi không làm, tôi cứ làm điều tôi ghét” (Rm 7,19).
Vì thế thánh Đaminh lợi dụng những
buổi tập họp của dân chúng kết hoa dâng Đức Mẹ, hát những bài ca bình dân, thì ngài
đã biến những buổi vui này thành những
buổi suy niệm Lời Chúa. Bởi vì trong lịch sử từ những điểm của 15 ngắm Vui
– Thương – Mừng, 150 kinh đều đã hướng lòng người giáo dân về toàn bộ mạc khải,
cho nên thánh Đaminh đã xen vào những
buổi cầu nguyện dâng hoa này bằng những giờ đào sâu Thánh Kinh để hiểu rõ về ý
định của Thiên Chúa, nhất là đào sâu
mầu nhiệm Nhập Thể : Ngôi Hai là thuần Thần đã nhập thể dưới dạng một con
người, nhờ vật chất để nâng cao con người từ cảnh tầm thường vươn đến niềm vui
ơn cứu độ, đó là liều thuốc chữa trị tư tưởng của bè rối đang lan truyền khắp
nơi. Nếu thánh Đaminh cổ võ sự sùng kính Đức Mẹ trong lãnh vực này, thì ta còn
phải hiểu ngài đã có ý nhắc đến Đức Mẹ, vì là Mẹ của Hội Thánh, chắc chắn Mẹ
bầu cử và dẫn dắt con cái mình khỏi rơi vào lạc giáo mà đi vào giáo lý truyền
thống của Hội Thánh được trình bày qua những buổi suy niệm Lời Chúa.
Vì những người vẫn đọc kinh Kính Mừng, họ tin rằng ngày nay trên trần thế
chào mừng Đức Mẹ bằng lời ấy, thì mai sau đến cửa Trời họ cũng được Đức Mẹ chào
mừng họ và dẫn họ vào Vườn Hồng Thiên Quốc. Từ đó họ phát sinh lời cầu
nguyện trong giờ lâm tử : “Thánh Maria
Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội…”.
B. TIẾN TRÌNH TRONG PHỤNG VỤ VỀ NGÀY LỄ MẸ MÂN CÔI
§ Đức Giáo hoàng Pio V ấn định mừng
lễ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 năm 1571 để nhớ ơn Đức Mẹ đã ủng hộ đoàn quân của Giáo Hội thắng
quân Hồi Giáo của Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh Lepante.
§ Đức Giáo hoàng Grégorio XIII lại
giới hạn chỉ cho một số Nhà Thờ trong Giáo Hội kính lễ Mẹ Mân Côi hằng năm bắt
đầu từ năm 1716.
§ Đức Giáo hoàng Clémente XI lại
buộc tất cả các Nhà Thờ trong Giáo Hội mừng kính lễ Mân Côi.
§ Đức Giáo hoàng Lêo XIII đặt lễ Đức
Mẹ Mân Côi là lễ Kính.
§ Từ Công Đồng Vat.II, Giáo Hội đặt
lễ Mân Côi là lễ Nhớ.
Ta biết lễ Chúa nhật là trung tâm
Phụng Vụ, là đỉnh cao ơn cứu độ, còn các lễ khác diễn tả về mầu nhiệm ơn cứu độ nhiều hay ít thì được
phân chia theo cấp bậc : lễ nào diễn tả nhiều nhất thì được gọi là lễ Trọng ;
lễ nào kém hơn thì được gọi là lễ Kính ; và lễ nào diễn tả ít thì được gọi là
lễ Nhớ, quen gọi là lễ bậc nhất, bậc nhì và bậc ba. Ngày nay toàn thể Giáo Hội
địa phương trong mỗi quốc gia đều mừng Đức Mẹ Mân Côi là lễ Nhớ, lễ bậc ba, trừ
có Giáo Hội Việt Nam thì xin được đặc cách gọi là lễ Trọng, được phép mừng vào
ngày Chúa nhật!
C. SỨ MỆNH CỦA ĐỨC MARIA ĐƯỢC TIỀM ẨN TRONG CỰU ƯỚC
Ta biết giá trị của Cựu Ước được
thể hiện trong Tân Ước và giá trị của Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu Ước (x Hiến
Chế Mạc Khải số 16). Bởi thế, sứ mệnh của Đức Maria đã được tiềm ẩn trong Cựu
Ước như sau :
1- Mẹ Maria là Eva
mới.
Eva
thuở xưa vì không vâng Lời Chúa, nên gieo sự chết vào dòng giống mình ; trái
lại, Đức Maria tuyệt đối vâng Lời Chúa, để quyền năng Lời Chúa thực hiện nơi Mẹ
điều Mẹ đã được nghe (x Lc 1,38), thì Mẹ đã cởi nút thắt cổ do bà Eva xưa cột
nơi dòng giống, để cho những ai được sinh lại trong Chúa Giê-su làm con Đức Mẹ
được thông hiệp vào sự sống của Thiên Chúa (x Ga 6,57). Như vậy, thuở xưa Eva
ăn quả Chúa cấm thì thần chết ập đến
(x St 3,24), thì nay ai ăn Quả lòng Bà
(x Lc 1,42), tức là Con Đức Maria, thì được sự sống dồi dào.
2- Mẹ Maria là bà Đêbôrah mới.
Yabin, vua Canaan, sai tướng
Sisơra kéo quân đánh Israel.
Nữ ngôn sứ Đêbôrah hướng dẫn Baraq đem quân chống lại Sisơra. Ông Baraq phải
mời bà Đêbôrah đi theo làm cố vấn cho ông, nhờ đó Baraq đánh tan được quân của
Sisơra cách oai hùng (x Qa 4,1-16).
3- Mẹ Maria là Yael mới.
Quân của Sisơra bị đánh tan, tướng
Sisơra chạy trốn vào nhà bà Yael xin bà lấy chăn phủ lên ông hòng tránh mặt ông
Baraq. Bà Yael cho hắn ăn uống xong, đoạn bà lấy chăn trùm cho hắn ngủ, rồi bà
rón rén nhổ cọc lều,dùng búa tạ đóng lên mang tai Sisơra, ghim đầu hắn xuống
đất! Thế là bà Yael đã diệt tận gốc rễ kẻ chống lại Israel (x Qa 4,17-22).
4- Mẹ Maria diễn tả người phụ nữ cắt đầu Shêba, tên
chống lại vua Đavid.
Tên Shêba dấy lên tập họp quân
chống lại vua Đavid, vua cho tướng Yoab đem quân truy nã Shêba, hắn chạy trốn
vào thành Abel – Bet – Maakah. Tướng Yoab cho quân bao vây thành, một bà trong
thành lập mưu cắt đầu Shêba quăng ra ngoài thành cho ông Yoab, vì bà không muốn
chỉ vì một kẻ có tội chống lại vua mà cả thành bị tru diệt (x 2 Sm 20).
5- Mẹ Maria là bà Yudita mới.
Hôlôphernê là tướng quân của vua Babylon, ông được lệnh đem
quân vây hãm tấn công trại dân Do Thái. Toàn dân, binh sĩ, cả các tướng lãnh Do
Thái đều lâm vào ngõ bí muốn đầu hàng, nhưng bà Yudita không thuận,vì làm như thế dân Chúa vẫn bị diệt và Chúa mất danh
dự! Do đó bà quyết âm ăn chay cầu nguyện tha thiết xin Chúa cứu dân vì danh dự
của Chúa (x Tv 143/142,11).
Thế rồi vào một đêm kia, bà trang
điểm lộng lẫy, âm thầm tiến vào trại quân của tướng Hôlôphernê, ông mê đắm sắc
đẹp của bà, bà lợi dụng phục rượu ông uống cho say mèm, rồi cắt đầu Hôlôphernê
đem về trại Do Thái trong tiếng reo mừng của toàn dân! (x Gd 10t).
6- Mẹ Maria là bà Esther mới.
Do mưu mô của tướng Aman mà vua
Assurêus đã ra sắc lệnh diệt toàn dân Do Thái. Nhưng Esther người gốc Do Thái
được vua Assurêus cưới làm vợ, khi bà thấy dân bị án tru diệt, bà đã ăn
chay cầu nguyện, rồi làm những bữa cơm
thịnh soạn mời vua cùng với tướng Aman dùng. Sau bữa ăn cuối cùng, nhà vua hứa
với Esther xin gì cũng cho, dù là nửa nước! Lúc ấy Esther thưa : “Xin vua đừng nuôi ong trong tay áo”. Vua
hỏi : “Ai?” Esther chỉ ngay vào Aman,
thế là vua ra lệnh treo cổ Aman lên trụ cao do chính hắn đã trồng hòng treo cổ
Mardoke chú của Esther. Vua còn cho phép người Do Thái được quyền chống lại
những ai tấn công mình.Thế là dân Do Thái tiêu diệt hết lính của Aman, giải
phóng cho toàn dân (x sách Es).
7- Mẹ Maria là bà Rêbêca mới.
Bà Rêbêca sinh đôi Esau và
Yacob, nhưng vì Esau đã cướp quyền
trưởng nam của Yacob, nên bà Rêbêca lập mưu lấy áo của Esau mặc cho Yacob, để
cho chồng bà là Ysaac tưởng lầm là Esau vì ông bị mù, mà chúc phúc cho Yacob (x
St 25.27). Thế thì Mẹ Maria lấy Lời Chúa trước đã ban cho dân Do Thái như chiếc
áo che chở họ mà mặc cho người Công Giáo, là con trưởng của Thiên Chúa để được
hưởng phúc lành.
8- Mẹ Maria là bà góa Sarepta mới.
Bà góa Sarepta nghèo khó, chỉ có
một người con, và hai mẹ con còn duy nhất
một chén bột định làm bánh ăn rồi chờ chết, nhưng khi gặp ngôn sứ Êlya,
bà đã sẵn sàng nhường bánh cho ông, từ bấy giờ hũ bột nhà bà không vơi. Khi con
bà chết, ngôn sứ Êlya cầu nguyện cho em được sống lại (x 1 V 17). Công phúc của
bà góa Sarepta vẫn thua công đức bà góa Maria, vì Đức Maria đã nuôi Con Thiên
Chúa 33 năm. Ta cũng là con của Mẹ, thì dù ta có chết vì phạm tội, chắc chắn
Chúa cũng cho ta được sống vì công đức của Mẹ Maria đã nuôi Con của Ngài.
9- Mẹ Maria là Bà Lớn thành Shunem mới.
Ngôn sứ Êlysa mỗi lần đi qua nhà
bà Lớn thành Shunem đều được bà mời vào trú ngụ và được bà phục vụ. Ngôn sứ
Êlysa đã cho bà có con trong tuổi già. Khi con bà qua đời, bà chạy lên núi ôm
chân ngôn sứ bắt vạ, ngôn sứ đến nằm trên xác em bé cầu nguyện, nhờ vậy em đã
được hồi sinh (x 2 V 4). Vẫn thua xa Đức Maria chính là Bà Lớn vì là Mẹ Thiên
Chúa. Bà Lớn Maria đã nuôi Con Thiên Chúa suốt 33 năm, chúng ta cũng là con Mẹ Maria, dù có chết vì tội đã phạm, Đức
Giê-su cũng tự ý cho ta được sống như Ngài đã tự ý cứu con bà góa thành Naim
gần thành Shunem được sống lại (x Lc 7,11-17).
10- Mẹ Maria là tấm lông chiên mới của Hội Thánh.
Ông Ghêđêôn trước khi xuất trận đã
xin Chúa một dấu chỉ : ông phơi tấm lông chiên ở ngoài sân, nếu sáng hôm sau
tấm lông chiên đẫm ướt sương, thì đó là dấu Chúa ủng hộ ông xuất quân ; rồi ông
lại xin Chúa thêm một dấu chỉ : ông lại đưa tấm lông chiên ra phơi ngoài sân,
tấm lông chiên khô ráo, còn sân thì đẫm sương, thì đó là dấu chỉ Chúa ủng hộ
ông chiến thắng (x Tp 6-7).
Theo hai thánh Ambrosio và Ephrem
cắt nghĩa :
-
Lần
I : Sương xuống đẫm ướt tấm lông chiên là Lời Chúa xuống trên Đức Maria trong
ngày Truyền Tin (x Lc 1,35).
-
Lần
II : Sương xuống ướt đẫm đất, còn tấm lông chiên thì khô ráo : Thánh Thần Chúa
ban Lời xuống trên Hội Thánh (x Cv 2).
11- Đức Mẹ là Cây Sự Sống.
Thực vậy, lời bà Êlysabeth chúc
tụng Mẹ Maria : “Trong nữ giới có người
là diễm phúc! Và đáng chúc tụng thay quả lòng người” (Lc 1,42). Như vậy Quả
lòng Mẹ Maria chính là Chúa Giê-su, Đấng ban sự sống, thì Mẹ Maria phải Cây Sự
Sống. Xưa kia Adam, Eva sau khi phạm tội, Chúa sai thiên thần cầm gươm hỏa hào
chớp chớp để canh giữ lối vào cây sự sống (St 3,24). Vào thời Tân Ước, chính
Đức Giê-su lại dẫn môn đệ đến với Maria là Cây Sự Sống, khi Ngài bị treo trên cây
thập giá, thì cây thập giá đã triệt hạ cây Chúa cấm (Ga 19,25-27).
12- Đức Mẹ đích thực là Hòm Bia Thiên Chúa.
Xưa kia vua Đavid đã rước Hòm Bia
Thiên Chúa về cung điện của mình, trên đường đi ông đã đưa Hòm Bia vào tạm nghỉ
tại nhà ông Obededom ba tháng, nhà này được Chúa chúc phúc (2Sm 6,1-12), thì Chúa Giê-su là Ngôi
Lời của Thiên Chúa, trước khi được rước về Cung Điện trên Trời, Ngôi Lời đã
được đặt trong cung lòng Đức Maria là Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa suốt 33
năm, thì cả Gia Đình của Mẹ là Hội Thánh được Thiên Chúa cứu độ (Lc 1,39-56).
Với 12 điểm sáng chói trên, Mẹ đã
được Thiên Chúa ban để chiếu sáng vào Hội Thánh. Đó là lý do Chúa cho ông Gioan
nhìn thấy thị kiến người nữ đội triều thiên mười hai ngôi sao (Kh 12,1).
D. ĐỨC MARIA TRONG THỜI TÂN ƯỚC
1/ MẸ LÀ MẪU GƯƠNG CHO
CON CÁI VÂNG LỜI CHÚA.
Tiếng Xin Vâng của Đức Maria trong
ngày Truyền Tin thật chẳng có gì khó khăn, bởi vì ngày ấy Mẹ được chúc : “Đầy ân phúc” (Lc 1,28) ; Mẹ được đắc
sủng nơi Thiên Chúa (Lc 1,30) ; Mẹ được sinh Đức Giê-su là Con Đấng Tối Cao (Lc
1,31-32) ; Con Mẹ làm Vua tái lập triều đại Đavid. Mẹ được cả uy quyền Đấng
Toàn Năng bảo đảm ban những ơn phúc ấy, cho nên Mẹ cũng sẵn sàng thưa : “Xin Chúa làm cho con điều Chúa nói” (Lc
1,38) ; rồi Mẹ lại được chị họ là bà Êlysabeth thốt lên lời tán dương : “Trong nữ giới, em là người có phúc” (Lc
1,42a). Chính vì những lý do trên mà Đúc Mẹ thêm tin tưởng hân hoan nói lên lời
tạ ơn Chúa : “Này từ đây mọi đời sẽ khen
tôi có phúc” (Lc 1,48b).
Thế nhưng sau đó Mẹ đã gặp những
cơn thử thách ập đến :
-
Ông
Giuse, bạn trăm năm của Mẹ định tâm lìa bỏ âm thầm trốn đi (Mt 1,19).
-
Ngày
sinh Con, không tìm được nơi xứng đáng, phải đành đặt Con trong máng cỏ nơi
hang bò lừa (Lc 2,7).
-
Ông
Simêon nói tiên tri : “Trẻ này làm cho
nhiều người chỗi dậy,nhưng cũng làm cho lắm kẻ bổ nhào, một mũi gươm đâm thâu
lòng bà” (Lc 2,34-35).
-
Vua
Hê-rô-đê ra lệnh truy nã giết Hài Nhi Giêsu, Con Mẹ, khiến ông Giuse đang đêm
phải đưa hai Mẹ Con trốn sang Ai Cập (Mt 2,13t).
-
Chua
xót nhất là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn Con, thì
xem ra tất cả những Lời Chúa hứa trong ngày Truyền Tin chỉ là những dối gạt ; Con
thật của Mẹ là Đức Giê-su bị người ta loại trừ, và Mẹ nhận lại Gioan là con
người tội lỗi (Ga 19,25-27).
Vậy tiếng Xin Vâng của Mẹ được
đánh giá cao vì suốt cuộc đời Mẹ sinh dưỡng Chúa Giê-su chỉ toàn gặp những
nghịch cảnh trái với Lời Chúa hứa. Nhưng những thử thách đó không quật ngã được
Mẹ. Mẹ vẫn ĐỨNG nhìn Con treo trên thập giá (Ga 19,25). Mẹ đã trở thành bánh
lái và cũng là hoa tiêu điều khiển con tầu Hội Thánh đang gặp sóng gió kinh
hoàng nhất.
Xưa kia Chúa chỉ cho ông Noe đóng
tầu tỉ mỉ từng chi tiết, thế nhưng không thấy Chúa dạy ông làm bánh lái. Tầu mà
không có bánh lái làm sao cập bến! (St 6,14-16). Tầu ấy chính là Hội Thánh, và
như thế vào thời Tân Ước Chúa mới lắp “bánh lái Maria” vào. Để nhờ bánh lái này
mà Hội Thánh được cập bến Thiên Đàng!
2/ LỜI NÓI MẸ MARIA
LÀM HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG VÀ CỨU CHUỘC LOÀI NGƯỜI.
Tân Ước ghi lại sáu lần Đức Maria
nói, nhưng năm lần Mẹ nói với Chúa và nói về Chúa :
1- Mẹ nói với thiên thần : “Việc đó xảy đó thế nào vì tôi không ăn ở với
người nam” (Lc
1,34).
2- Mẹ thưa với thiên thần : “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi
điều Chúa nói” (Lc 1,38).
3- Mẹ cầu nguyện rất dài tại nhà bà
Êlysabeth, người chị họ (Lc 1,46-55).
4- Mẹ trách Đức Giê-su trốn ở lại Đền
Thờ làm cho cha mẹ đau khổ đi tìm (Lc 2,48).
5- Mẹ trình bày với Đức Giê-su trong
tiệc cưới Cana : “Nhà này hết rượu rồi” (Ga 2,3).
Mẹ chỉ nói với loài người duy một
lời trong lần thứ sáu cũng là lần cuối cùng ;
6- “Giêsu bảo gì cứ làm theo”
(Ga 2,5)
Ta biết thuở tạo dựng ban đầu,
Thiên Chúa phán sáu lần trong sáu ngày, đặc biệt ngày thứ sáu cũng là lần thứ
sáu, Chúa phán con người được tạo dựng giống hình ảnh Ngài (St 1,26), đó là chỉ
tiêu Chúa đặt ra. Chứ thực ra lúc ấy con người chỉ là một sinh vật (1Cr 15,45-
bản dịch PVGK), chưa thể được nên giống Thiên Chúa, trừ khi người ta thực hiện lời Mẹ nói lần thứ sáu
trong thời Tân Ước : “Giêsu bảo gì cứ làm
theo”, lúc đó người ta mới thực sự nên giống Thiên Chúa.
3/ VIỆC PHỤC VỤ CỦA MẸ
BÁO TRƯỚC CHƯƠNG TRÌNH CON THIÊN CHÚA THỰC HIỆN.
Thực vậy, ai cũng tưởng nghĩ Mẹ
đến nhà chị họ Êlysabeth đã mang thai được sáu tháng, thì Mẹ phải ở đó phục vụ trên ba tháng, đợi
khi người chị họ sinh “mẹ tròn con vuông”, thì Mẹ mới trở về quê. Thế mà tác
giả Luca lại ghi : Mẹ ở nhà chị họ có ba tháng rồi trở về quê, lúc đó Gioan mới
sinh ra (Lc 1,56-57). Điều ngạc nhiên này thật ra ông Luca đã nhận ra dấu chỉ :
Đức Giê-su đến phục vụ trần gian, đặc biệt ba năm cuối đời, rồi Ngài về Quê Trời, lúc đó Hội Thánh mới sinh
các Ki-tô hữu.
4/ MẸ DANG RỘNG VÒNG
TAY THAM GIA VÀO CHƯƠNG TRÌNH CỨU CHUỘC CỦA CON MẸ TỪ KHỞI SỰ
ĐẾN HOÀN THÀNH.
Đó là lý do mà thánh sử Gioan cho
chúng ta thấy Đức Maria chỉ xuất hiện hai lần trong đời công khai của Đức Giêsu
:
-
Lần
I : Mẹ có mặt trong tiệc cưới tại Cana
cùng với Đức Giêsu, để nói lên nhu cầu của loài người với Con Mẹ, đồng thời Mẹ
cũng nhắc cho loài người phải nghe và thực hành Lời Con Mẹ (Ga 2).
-
Lần
II : Khi Đức Giê-su hoàn tất cuộc đời công khai trên thập giá, Mẹ Maria lại
hiện diện và được Đức Giê-su trao phó người môn đệ Gioan cho Mẹ chăm sóc (Ga
19,27).
Vậy Con Thiên Chúa toàn năng còn
cần đến Mẹ Maria cộng tác từ khởi sự cho đến hoàn thành, huống chi chúng ta là
con người hữu hạn lại càng cần phải cậy nhờ Mẹ hằng cứu giúp, đúng với danh
hiệu của Mẹ là “Trạng Sư, Đấng Bảo Trợ, Đấng Phù Trợ, Đấng Trung Gian, Đấng
Đồng Công Cứu Chuộc” (xem Hiến Chế Hội Thánh số 62). Bởi vì Mẹ vừa là Mẹ Thiên
Chúa vừa là Mẹ loài người (Hiến Chế Hội Thánh số 66).’
Chính vì vai trò của Mẹ rất quan
trọng trong chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người, nên trong Phụng Vụ của
Hội Thánh có 15 Lễ Kính Đức Mẹ :
1- Lễ Mẹ Thiên Chúa 1-1
2- Lễ Mẹ Dâng Con Vào Đền Thờ 2-2
3- Lễ Mẹ Lộ Đức 11-2.
4- Lễ Truyền Tin 25-3
5- Lễ Mẹ Đi Thăm Viếng 31-5
6- Lễ Mẹ Núi Carmelo 16-7
7- Lễ Cung Hiến Đền Thờ Đức Bà Cả 5-8
8- Lễ Mẹ Lên Trời 15-8.
9- Lễ Trinh Nữ Vương 22-8
10- Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ 8-9
11- Lễ Bảy Sự Đau Đớn Đức Mẹ 15-9
12- Lễ Mẹ Mân Côi 7-10
13- Lễ Mẹ Dâng Mình 21-11
14- Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8-12
15- Lễ Trái Tim Đức Mẹ (sau lễ Thánh
Tâm)
Khi ta chiêm ngưỡng một pho tượng
kỳ diệu, tuyệt tác, thì đương nhiên ta khen nhà điêu khắc tài ba. Do đó khi ta
chiêm ngưỡng danh dự và vinh quang của Mẹ Maria, thì ta phải cùng với Mẹ mà cất
tiếng tạ ơn “Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi những điều cao cả” (Lc 1,49).