Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
7 /10 - MẸ MÂN CÔI
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Cv 1, 12-14
12 Sau khi Đức Giê-su được rước lên Trời, các Tông Đồ từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát.13 Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê.14 Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.
(hoặc Gl 4, 4-7) :
4 Thưa anh em, khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật,5 để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử.6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi! "7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.
ĐÁP CA : Lc 1
Đ.        Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
            danh Người thật chí thánh chí tôn ! (c 49)
46 "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, 47 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. 49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. 51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. 53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người.55 Như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời."
 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG : x Lc 1, 28
Hall-Hall : Kính chào Đức Ma-ri-a, Mẹ đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ, Mẹ có phúc hơn mọi người phụ nữ. Hall.
TIN MỪNG : Lc 1, 26-38
26 Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà."29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
30 Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31 Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! "  35 Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."
38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
 
BÀI GIẢNG

MẦU NHIỆM ĐỨC MARIA



A. LỊCH SỬ LỄ MÂN CÔI.
Phần lịch sử này dựa trên các tài liệu dưới đây:
-          M.Gorce La Religion Poétique Populaire du Moyer Age.  Trong tập Histoire général des religions tome Christiamisme nedieval Aritide Quillet, Paris 1947 tr 51-71.
-          Marcel Mahé aux sources de notre Rosaire suppléments de la vie Spiritualle 1951 tr 101-120)
1/ TẠI SAO KINH KÍNH MỪNG LẠI GỌI LÀ KINH MÂN CÔI (HOA HỒNG) ?
Từ thế kỷ thứ 11 về trước, Hội Thánh không đọc kinh Kính Mừng. Kinh Kính Mừng phát sinh từ lòng đạo đức bình dân của quần chúng. Thực vậy, từ thế kỷ thứ 11 đến 13, những nhà quý phái đua nhau xây những đại Giáo Đường nguy nga, các hiền triết, các nhà thần học đua nhau xuất bản những pho sách về thần học, về đạo đức dày cộm. Tất cả những hiện tượng ấy nói lên phần nào lòng mến, lòng đạo đức của Hội Thánh trong thời kỳ hoàng kim. Thế thì giới bình dân họ phải làm gì ? Họ nảy sinh ra một sáng kiến là thi nhau hái hoa hồng kết thành những vòng hoa, cùng với những bài thi ca bình dân nói lên niềm vui của ơn cứu độ. Nếu việc hái  hoa hồng trải qua những khó khăn vì gai góc, nhưng lại nói lên loài hoa biểu tượng cho một niềm vui dạt dào và cao thượng, thì đó không phải là tâm tình đạo đức của người bình dân biểu tượng cho ơn cứu độ trải qua thập giá đến vinh quang, mà Hội Thánh đang trong thời kỳ phồn thịnh đó hay sao? Người ta còn tìm thấy một vài kinh cổ nói lên niềm vui hoa hồng của ơn cứu độ.
Thí dụ :
C Lời kinh của cộng đoàn Avignon :
“Hoa chóng tàn, vui trần thế mau qua,
Ta hãy hái hoa dâng Mẹ hiền,
Để mai sau được hưởng phúc vinh,
Hoa hồng thiêng chẳng khi tàn,
Mẹ là bông hoa là vườn hồng,
Mẹ là đấng nơi đó ngự trị,
Sự dịu dàng vượt trên mọi dịu dàng,
Mẹ là đấng nơi đó bừng nở,
Sắc đẹp chẳng tàn phai”.
C  Bài dân ca Đức :
“Người ta gọi Mẹ là vườn hồng, thật là chí lý.
Tất cả các con hãy đến cùng Mẹ, Mẹ sẽ nhận lời các con”.
Như vậy truyền thống dâng hoa đã khởi đi từ lòng đạo đức của giới bình dân vào những thế kỷ này…
Câu chuyện truyền khẩu về anh lái buôn có lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn được cùng với mọi người hái hoa kết tràng dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền nghĩ ra một cách làm bù trừ, là thay vì hái hoa đưa đến Nhà Thờ dâng Mẹ, nói lên niềm vui cứu độ loài người, nhờ Đức Mẹ khởi đầu từ biến cố Truyền Tin, anh đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin cho Đức Mẹ, cũng là ngày khơi mào ơn cứu độ cho cả nhân loại. Anh nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ. Sáng kiến ấy dần dần đã lan rộng tới nhiều người, không những đối với những người bận rộn, không đến Thánh Đường được, mà còn cả với những người có điều kiện hái hoa hồng dâng Mẹ. Vì dầu sao việc đọc những lời đó vẫn mang nội dung niềm vui sâu sắc hơn là cử chỉ bên ngoài hái hoa hồng dâng Mẹ.
Đó là gốc tích người ta gọi kinh Kính Mừng là kinh Mân Côi.
2/ TẠI SAO LÀ CÓ TRÀNG HẠT GỒM NĂM NGẮM?
Cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu gốc tích của tràng hạt từ những tôn giáo nào ảnh hưởng qua, bởi vì không phải chỉ có Công Giáo có tràng hạt, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên, con số năm ngắm được tương ứng với năm lễ lớn trong Phụng Vụ : Truyền Tin, Giáng Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.
3/ TẠI SAO LẠI CÓ TRÀNG HẠT MƯỜI LĂM NGẮM ?
Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh (1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở mồ lạnh, nhưng phải đạt tới sống lại vinh quang để lên Trời. Nỗ lực của thánh Vinh Sơn Ferrier dường như đã không thành công, vì không được phổ biến sâu rộng trong Giáo Hội, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi có thể diễn tả được niềm vui này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ qua chữ “KAIRE” mà sứ thần chào Đức Ma-ri-a.
Để nói trọn niềm vui ơn cứu độ ấy, người ta thấy không thể giản lược vào năm lễ lớn của năm ngắm đã có sẵn. Cho nên Đan Viện Sallay ở thế kỷ 13 lại nghĩ đến nhiều biến cố khác trong chương trình cứu độ, để tương xứng con số 15 : Sinh Nhật Đức Mẹ, cuộc đời Đức Mẹ, Truyền Tin cho Đức Mẹ, Đức Mẹ thụ thai, Đức Mẹ Thăm Viếng, Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su, Ba vua đến triều bái Hài Nhi, Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền Thờ, Đức Mẹ tìm thấy Chúa Giê-su trong Đền Thờ, dấu lạ Cana có Mẹ can thiệp, Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, Phục Sinh, Thăng Thiên, Hiện Xuống, Đức Mẹ lên Trời.
4/ TẠI SAO LẠI CÓ BA MÙA VUI – THƯƠNG – MỪNG ?
Cách chia này do Alain de la Roche (1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569.
Như đã nói kinh Kính Mừng là niềm vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui) ; Tử Nạn (Thương) ; đến sống lại vinh quang (Mừng).
Ta để ý dù đọc ba Mùa với mầu nhiệm khác nhau, nhưng trong mỗi Mùa, kinh Kính Mừng đã không lấy một phần tương ứng với mầu nhiệm Thương và Mừng, mà chỉ lấy một đoạn Thánh Kinh tương ứng với mùa Vui (mầu nhiệm Nhập Thể). Điều này không cho phép chúng ta phải nghĩ rằng muốn được hưởng niềm vui ơn cứu độ, con người phải sống mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể hay sao ? Bởi vì nếu ta chỉ nói Chúa Giê-su đã chết và Phục Sinh để cứu ta, thì đó mới chỉ là nặng phần pháp lý, cho dù Chúa Giê-su đã chết và Phục Sinh, mà chúng ta không để cho Lời Chúa nhập thể, hay chúng ta không sống Lời Chúa, thì việc chết và Phục Sinh của Chúa Giê-su đâu có cứu nổi chúng ta!
5/ TẠI SAO ĐỌC 15O KINH ?
Từ trước Công Đồng Vat.II, Hội Thánh đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham dự giờ kinh này. Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong lịch sử. Thí dụ ta đọc Tv 51/50,7 : “Từ trong lòng mẹ tôi đã là kẻ bất lương”, thì chúng ta liên tưởng ngay đến con cái của bà Thamar tranh nhau quyền trưởng nam ngay trong lòng mẹ ( x St 38).
Như thế, đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ Thánh Kinh, suy gẫm toàn bộ biến cố mạc khải.
Vậy người giáo dân không có điều kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói : Niềm vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào đã được trải rộng toàn bộ kho tàng mạc khải.
6/ THÁNH ĐA MINH VỚI KINH KÍNH MỪNG.
Người ta vẫn truyền tụng phép lạ Đức Mẹ trao tràng hạt cho thánh Đaminh cổ võ, nhưng thực ra phép lạ này có lẽ phát xuất từ lòng sùng kính và cổ võ kinh Mân Côi hơn là chứng tích lịch sử. Về phương diện lịch sử thì không ai chối cãi thánh Đaminh có công lớn trong việc cổ võ lòng sùng kính kinh Mân Côi, bởi vì vào thế kỷ 13 trước hiểm họa của bè rối Albigeois, thì việc canh tân và cổ võ lòng sùng kính kinh Mân Côi  như một liều thuốc chữa trị bệnh thời đại. Ta biết bè rối Albigeois chủ trương thuyết  Nhị Nguyên, nghĩa là trong vũ trụ có hai nguyên nhân : sự ác và sự thiện luôn luôn đấu tranh và dày vò con người, con người không còn tự do để chọn lựa, và người ta thấy cuộc đời là bao trùm một sự bi đát, bởi vì ai cũng cảm thấy kể cả thánh Phao-lô : “Điều tốt tôi muốn, tôi không làm, tôi cứ làm điều tôi ghét” (Rm 7,19).
Vì thế thánh Đaminh lợi dụng những buổi tập họp của dân chúng kết hoa dâng Đức Mẹ, hát những bài ca bình dân, thì ngài đã biến những buổi vui này thành những buổi suy niệm Lời Chúa. Bởi vì trong lịch sử từ những điểm của 15 ngắm Vui – Thương – Mừng, 150 kinh đều đã hướng lòng người giáo dân về toàn bộ mạc khải, cho nên thánh Đaminh đã xen vào những buổi cầu nguyện dâng hoa này bằng những giờ đào sâu Thánh Kinh để hiểu rõ về ý định của Thiên Chúa,  nhất là đào sâu mầu nhiệm Nhập Thể : Ngôi Hai là thuần Thần đã nhập thể dưới dạng một con người, nhờ vật chất để nâng cao con người từ cảnh tầm thường vươn đến niềm vui ơn cứu độ, đó là liều thuốc chữa trị tư tưởng của bè rối đang lan truyền khắp nơi. Nếu thánh Đaminh cổ võ sự sùng kính Đức Mẹ trong lãnh vực này, thì ta còn phải hiểu ngài đã có ý nhắc đến Đức Mẹ, vì là Mẹ của Hội Thánh, chắc chắn Mẹ bầu cử và dẫn dắt con cái mình khỏi rơi vào lạc giáo mà đi vào giáo lý truyền thống của Hội Thánh được trình bày qua những buổi suy niệm Lời Chúa.
những người vẫn đọc kinh Kính Mừng, họ tin rằng ngày nay trên trần thế chào mừng Đức Mẹ bằng lời ấy, thì mai sau đến cửa Trời họ cũng được Đức Mẹ chào mừng họ và dẫn họ vào Vườn Hồng Thiên Quốc. Từ đó họ phát sinh lời cầu nguyện trong giờ lâm tử : “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội…”.
 
B. TIẾN TRÌNH TRONG PHỤNG VỤ VỀ NGÀY LỄ MẸ MÂN CÔI
§   Đức Giáo hoàng Pio V ấn định mừng lễ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10 năm 1571 để nhớ ơn Đức  Mẹ đã ủng hộ đoàn quân của Giáo Hội thắng quân Hồi Giáo của Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh Lepante.
§   Đức Giáo hoàng Grégorio XIII lại giới hạn chỉ cho một số Nhà Thờ trong Giáo Hội kính lễ Mẹ Mân Côi hằng năm bắt đầu từ năm 1716.
§   Đức Giáo hoàng Clémente XI lại buộc tất cả các Nhà Thờ trong Giáo Hội mừng kính lễ Mân Côi.
§   Đức Giáo hoàng Lêo XIII đặt lễ Đức Mẹ Mân Côi là lễ Kính.
§   Từ Công Đồng Vat.II, Giáo Hội đặt lễ Mân Côi là lễ Nhớ.
Ta biết lễ Chúa nhật là trung tâm Phụng Vụ, là đỉnh cao ơn cứu độ, còn các lễ khác diễn tả về  mầu nhiệm ơn cứu độ nhiều hay ít thì được phân chia theo cấp bậc : lễ nào diễn tả nhiều nhất thì được gọi là lễ Trọng ; lễ nào kém hơn thì được gọi là lễ Kính ; và lễ nào diễn tả ít thì được gọi là lễ Nhớ, quen gọi là lễ bậc nhất, bậc nhì và bậc ba. Ngày nay toàn thể Giáo Hội địa phương trong mỗi quốc gia đều mừng Đức Mẹ Mân Côi là lễ Nhớ, lễ bậc ba, trừ có Giáo Hội Việt Nam thì xin được đặc cách gọi là lễ Trọng, được phép mừng vào ngày Chúa nhật!
 
C. SỨ MỆNH CỦA ĐỨC MARIA ĐƯỢC TIỀM ẨN TRONG CỰU ƯỚC
Ta biết giá trị của Cựu Ước được thể hiện trong Tân Ước và giá trị của Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu Ước (x Hiến Chế Mạc Khải số 16). Bởi thế, sứ mệnh của Đức Maria đã được tiềm ẩn trong Cựu Ước như sau :
1- Mẹ Maria là Eva mới.
Eva thuở xưa vì không vâng Lời Chúa, nên gieo sự chết vào dòng giống mình ; trái lại, Đức Maria tuyệt đối vâng Lời Chúa, để quyền năng Lời Chúa thực hiện nơi Mẹ điều Mẹ đã được nghe (x Lc 1,38), thì Mẹ đã cởi nút thắt cổ do bà Eva xưa cột nơi dòng giống, để cho những ai được sinh lại trong Chúa Giê-su làm con Đức Mẹ được thông hiệp vào sự sống của Thiên Chúa (x Ga 6,57). Như vậy, thuở xưa Eva ăn quả Chúa cấm thì thần chết ập đến (x St 3,24), thì nay ai ăn Quả lòng Bà (x Lc 1,42), tức là Con Đức Maria, thì được sự sống dồi dào.
2- Mẹ Maria là bà Đêbôrah mới.
Yabin, vua Canaan, sai tướng Sisơra kéo quân đánh Israel. Nữ ngôn sứ Đêbôrah hướng dẫn Baraq đem quân chống lại Sisơra. Ông Baraq phải mời bà Đêbôrah đi theo làm cố vấn cho ông, nhờ đó Baraq đánh tan được quân của Sisơra cách oai hùng (x Qa 4,1-16).
3- Mẹ Maria là Yael mới.
Quân của Sisơra bị đánh tan, tướng Sisơra chạy trốn vào nhà bà Yael xin bà lấy chăn phủ lên ông hòng tránh mặt ông Baraq. Bà Yael cho hắn ăn uống xong, đoạn bà lấy chăn trùm cho hắn ngủ, rồi bà rón rén nhổ cọc lều,dùng búa tạ đóng lên mang tai Sisơra, ghim đầu hắn xuống đất! Thế là bà Yael đã diệt tận gốc rễ kẻ chống lại Israel (x Qa 4,17-22).
4- Mẹ Maria diễn tả người phụ nữ cắt đầu Shêba, tên chống lại vua Đavid.
Tên Shêba dấy lên tập họp quân chống lại vua Đavid, vua cho tướng Yoab đem quân truy nã Shêba, hắn chạy trốn vào thành Abel – Bet – Maakah. Tướng Yoab cho quân bao vây thành, một bà trong thành lập mưu cắt đầu Shêba quăng ra ngoài thành cho ông Yoab, vì bà không muốn chỉ vì một kẻ có tội chống lại vua mà cả thành bị tru diệt (x 2 Sm 20).
5- Mẹ Maria là bà Yudita mới.
Hôlôphernê là tướng quân của vua Babylon, ông được lệnh đem quân vây hãm tấn công trại dân Do Thái. Toàn dân, binh sĩ, cả các tướng lãnh Do Thái đều lâm vào ngõ bí muốn đầu hàng, nhưng bà Yudita không thuận,vì làm  như thế dân Chúa vẫn bị diệt và Chúa mất danh dự! Do đó bà quyết âm ăn chay cầu nguyện tha thiết xin Chúa cứu dân vì danh dự của Chúa (x Tv 143/142,11).
Thế rồi vào một đêm kia, bà trang điểm lộng lẫy, âm thầm tiến vào trại quân của tướng Hôlôphernê, ông mê đắm sắc đẹp của bà, bà lợi dụng phục rượu ông uống cho say mèm, rồi cắt đầu Hôlôphernê đem về trại Do Thái trong tiếng reo mừng của toàn dân! (x Gd 10t).
6- Mẹ Maria là bà Esther mới.
Do mưu mô của tướng Aman mà vua Assurêus đã ra sắc lệnh diệt toàn dân Do Thái. Nhưng Esther người gốc Do Thái được vua Assurêus cưới làm vợ, khi bà thấy dân bị án tru diệt, bà đã ăn chay  cầu nguyện, rồi làm những bữa cơm thịnh soạn mời vua cùng với tướng Aman dùng. Sau bữa ăn cuối cùng, nhà vua hứa với Esther xin gì cũng cho, dù là nửa nước! Lúc ấy Esther thưa : “Xin vua đừng nuôi ong trong tay áo”. Vua hỏi : “Ai?” Esther chỉ ngay vào Aman, thế là vua ra lệnh treo cổ Aman lên trụ cao do chính hắn đã trồng hòng treo cổ Mardoke chú của Esther. Vua còn cho phép người Do Thái được quyền chống lại những ai tấn công mình.Thế là dân Do Thái tiêu diệt hết lính của Aman, giải phóng cho toàn dân (x sách Es).
7- Mẹ Maria là bà Rêbêca mới.
Bà Rêbêca sinh đôi Esau và Yacob,  nhưng vì Esau đã cướp quyền trưởng nam của Yacob, nên bà Rêbêca lập mưu lấy áo của Esau mặc cho Yacob, để cho chồng bà là Ysaac tưởng lầm là Esau vì ông bị mù, mà chúc phúc cho Yacob (x St 25.27). Thế thì Mẹ Maria lấy Lời Chúa trước đã ban cho dân Do Thái như chiếc áo che chở họ mà mặc cho người Công Giáo, là con trưởng của Thiên Chúa để được hưởng phúc lành.
8- Mẹ Maria là bà góa Sarepta mới.
Bà góa Sarepta nghèo khó, chỉ có một người con, và hai mẹ con còn duy nhất  một chén bột định làm bánh ăn rồi chờ chết, nhưng khi gặp ngôn sứ Êlya, bà đã sẵn sàng nhường bánh cho ông, từ bấy giờ hũ bột nhà bà không vơi. Khi con bà chết, ngôn sứ Êlya cầu nguyện cho em được sống lại (x 1 V 17). Công phúc của bà góa Sarepta vẫn thua công đức bà góa Maria, vì Đức Maria đã nuôi Con Thiên Chúa 33 năm. Ta cũng là con của Mẹ, thì dù ta có chết vì phạm tội, chắc chắn Chúa cũng cho ta được sống vì công đức của Mẹ Maria đã nuôi Con của Ngài.
9- Mẹ Maria là Bà Lớn thành Shunem mới.
Ngôn sứ Êlysa mỗi lần đi qua nhà bà Lớn thành Shunem đều được bà mời vào trú ngụ và được bà phục vụ. Ngôn sứ Êlysa đã cho bà có con trong tuổi già. Khi con bà qua đời, bà chạy lên núi ôm chân ngôn sứ bắt vạ, ngôn sứ đến nằm trên xác em bé cầu nguyện, nhờ vậy em đã được hồi sinh (x 2 V 4). Vẫn thua xa Đức Maria chính là Bà Lớn vì là Mẹ Thiên Chúa. Bà Lớn Maria đã nuôi Con Thiên Chúa suốt 33 năm, chúng ta cũng là  con Mẹ Maria, dù có chết vì tội đã phạm, Đức Giê-su cũng tự ý cho ta được sống như Ngài đã tự ý cứu con bà góa thành Naim gần thành Shunem được sống lại (x Lc 7,11-17).
10- Mẹ Maria là tấm lông chiên mới của Hội Thánh.
Ông Ghêđêôn trước khi xuất trận đã xin Chúa một dấu chỉ : ông phơi tấm lông chiên ở ngoài sân, nếu sáng hôm sau tấm lông chiên đẫm ướt sương, thì đó là dấu Chúa ủng hộ ông xuất quân ; rồi ông lại xin Chúa thêm một dấu chỉ : ông lại đưa tấm lông chiên ra phơi ngoài sân, tấm lông chiên khô ráo, còn sân thì đẫm sương, thì đó là dấu chỉ Chúa ủng hộ ông chiến thắng (x Tp 6-7).
Theo hai thánh Ambrosio và Ephrem cắt nghĩa :
-      Lần I : Sương xuống đẫm ướt tấm lông chiên là Lời Chúa xuống trên Đức Maria trong ngày Truyền Tin (x Lc 1,35).
-      Lần II : Sương xuống ướt đẫm đất, còn tấm lông chiên thì khô ráo : Thánh Thần Chúa ban Lời xuống trên Hội Thánh (x Cv 2).
11- Đức Mẹ là Cây Sự Sống.
Thực vậy, lời bà Êlysabeth chúc tụng Mẹ Maria : “Trong nữ giới có người là diễm phúc! Và đáng chúc tụng thay quả lòng người” (Lc 1,42). Như vậy Quả lòng Mẹ Maria chính là Chúa Giê-su, Đấng ban sự sống, thì Mẹ Maria phải Cây Sự Sống. Xưa kia Adam, Eva sau khi phạm tội, Chúa sai thiên thần cầm gươm hỏa hào chớp chớp để canh giữ lối vào cây sự sống (St 3,24). Vào thời Tân Ước, chính Đức Giê-su lại dẫn môn đệ đến với Maria là Cây Sự Sống, khi Ngài bị treo trên cây thập giá, thì cây thập giá đã triệt hạ cây Chúa cấm (Ga 19,25-27).
12- Đức Mẹ đích thực là Hòm Bia Thiên Chúa.
Xưa kia vua Đavid đã rước Hòm Bia Thiên Chúa về cung điện của mình, trên đường đi ông đã đưa Hòm Bia vào tạm nghỉ tại nhà ông Obededom ba tháng, nhà này được Chúa chúc phúc        (2Sm 6,1-12), thì Chúa Giê-su là Ngôi Lời của Thiên Chúa, trước khi được rước về Cung Điện trên Trời, Ngôi Lời đã được đặt trong cung lòng Đức Maria là Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa suốt 33 năm, thì cả Gia Đình của Mẹ là Hội Thánh được Thiên Chúa cứu độ (Lc 1,39-56).
Với 12 điểm sáng chói trên, Mẹ đã được Thiên Chúa ban để chiếu sáng vào Hội Thánh. Đó là lý do Chúa cho ông Gioan nhìn thấy thị kiến người nữ đội triều thiên mười hai ngôi sao                      (Kh 12,1).
 
D. ĐỨC MARIA TRONG THỜI TÂN ƯỚC
1/ MẸ LÀ MẪU GƯƠNG CHO CON CÁI VÂNG LỜI CHÚA.
Tiếng Xin Vâng của Đức Maria trong ngày Truyền Tin thật chẳng có gì khó khăn, bởi vì ngày ấy Mẹ được chúc : “Đầy ân phúc” (Lc 1,28) ; Mẹ được đắc sủng nơi Thiên Chúa (Lc 1,30) ; Mẹ được sinh Đức Giê-su là Con Đấng Tối Cao (Lc 1,31-32) ; Con Mẹ làm Vua tái lập triều đại Đavid. Mẹ được cả uy quyền Đấng Toàn Năng bảo đảm ban những ơn phúc ấy, cho nên Mẹ cũng sẵn sàng thưa : “Xin Chúa làm cho con điều Chúa nói” (Lc 1,38) ; rồi Mẹ lại được chị họ là bà Êlysabeth thốt lên lời tán dương : “Trong nữ giới, em là người có phúc” (Lc 1,42a). Chính vì những lý do trên mà Đúc Mẹ thêm tin tưởng hân hoan nói lên lời tạ ơn Chúa : “Này từ đây mọi đời sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1,48b).
Thế nhưng sau đó Mẹ đã gặp những cơn thử thách ập đến :
-      Ông Giuse, bạn trăm năm của Mẹ định tâm lìa bỏ âm thầm trốn đi (Mt 1,19).
-      Ngày sinh Con, không tìm được nơi xứng đáng, phải đành đặt Con trong máng cỏ nơi hang bò lừa (Lc 2,7).
-      Ông Simêon nói tiên tri : “Trẻ này làm cho nhiều người chỗi dậy,nhưng cũng làm cho lắm kẻ bổ nhào, một mũi gươm đâm thâu lòng bà” (Lc 2,34-35).
-      Vua Hê-rô-đê ra lệnh truy nã giết Hài Nhi Giêsu, Con Mẹ, khiến ông Giuse đang đêm phải đưa hai Mẹ Con trốn sang Ai Cập (Mt 2,13t).
-      Chua xót nhất là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn Con, thì xem ra tất cả những Lời Chúa hứa trong ngày Truyền Tin chỉ là những dối gạt ; Con thật của Mẹ là Đức Giê-su bị người ta loại trừ, và Mẹ nhận lại Gioan là con người tội lỗi (Ga 19,25-27).
Vậy tiếng Xin Vâng của Mẹ được đánh giá cao vì suốt cuộc đời Mẹ sinh dưỡng Chúa Giê-su chỉ toàn gặp những nghịch cảnh trái với Lời Chúa hứa. Nhưng những thử thách đó không quật ngã được Mẹ. Mẹ vẫn ĐỨNG nhìn Con treo trên thập giá (Ga 19,25). Mẹ đã trở thành bánh lái và cũng là hoa tiêu điều khiển con tầu Hội Thánh đang gặp sóng gió kinh hoàng nhất.
Xưa kia Chúa chỉ cho ông Noe đóng tầu tỉ mỉ từng chi tiết, thế nhưng không thấy Chúa dạy ông làm bánh lái. Tầu mà không có bánh lái làm sao cập bến! (St 6,14-16). Tầu ấy chính là Hội Thánh, và như thế vào thời Tân Ước Chúa mới lắp “bánh lái Maria” vào. Để nhờ bánh lái này mà Hội Thánh được cập bến Thiên Đàng!
2/ LỜI NÓI MẸ MARIA LÀM HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG VÀ CỨU CHUỘC LOÀI NGƯỜI.
Tân Ước ghi lại sáu lần Đức Maria nói, nhưng năm lần Mẹ nói với Chúa và nói về Chúa :
1-     Mẹ nói với thiên thần : “Việc đó xảy đó thế nào vì tôi không ăn ở với người nam” (Lc 1,34).
2-     Mẹ thưa với thiên thần : “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi điều Chúa nói” (Lc 1,38).
3-     Mẹ cầu nguyện rất dài tại nhà bà Êlysabeth, người chị họ (Lc 1,46-55).
4-     Mẹ trách Đức Giê-su trốn ở lại Đền Thờ làm cho cha mẹ đau khổ đi tìm (Lc 2,48).
5-     Mẹ trình bày với Đức Giê-su trong tiệc cưới Cana : “Nhà này hết rượu rồi” (Ga 2,3).
Mẹ chỉ nói với loài người duy một lời trong lần thứ sáu cũng là lần cuối cùng ;
6-   Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5)
Ta biết thuở tạo dựng ban đầu, Thiên Chúa phán sáu lần trong sáu ngày, đặc biệt ngày thứ sáu cũng là lần thứ sáu, Chúa phán con người được tạo dựng giống hình ảnh Ngài (St 1,26), đó là chỉ tiêu Chúa đặt ra. Chứ thực ra lúc ấy con người chỉ là một sinh vật (1Cr 15,45- bản dịch PVGK), chưa thể được nên giống Thiên Chúa, trừ khi  người ta thực hiện lời Mẹ nói lần thứ sáu trong thời Tân Ước : “Giêsu bảo gì cứ làm theo”, lúc đó người ta mới thực sự nên giống Thiên Chúa.
3/ VIỆC PHỤC VỤ CỦA MẸ BÁO TRƯỚC CHƯƠNG TRÌNH CON THIÊN CHÚA THỰC HIỆN.
Thực vậy, ai cũng tưởng nghĩ Mẹ đến nhà chị họ Êlysabeth đã mang thai được sáu tháng,  thì Mẹ phải ở đó phục vụ trên ba tháng, đợi khi người chị họ sinh “mẹ tròn con vuông”, thì Mẹ mới trở về quê. Thế mà tác giả Luca lại ghi : Mẹ ở nhà chị họ có ba tháng rồi trở về quê, lúc đó Gioan mới sinh ra (Lc 1,56-57). Điều ngạc nhiên này thật ra ông Luca đã nhận ra dấu chỉ : Đức Giê-su đến phục vụ trần gian, đặc biệt ba năm cuối đời, rồi  Ngài về Quê Trời, lúc đó Hội Thánh mới sinh các Ki-tô hữu.
4/ MẸ DANG RỘNG VÒNG TAY THAM GIA VÀO CHƯƠNG TRÌNH CỨU CHUỘC CỦA CON MẸ TỪ KHỞI SỰ ĐẾN HOÀN THÀNH.
Đó là lý do mà thánh sử Gioan cho chúng ta thấy Đức Maria chỉ xuất hiện hai lần trong đời công khai của Đức Giêsu :
-      Lần I  : Mẹ có mặt trong tiệc cưới tại Cana cùng với Đức Giêsu, để nói lên nhu cầu của loài người với Con Mẹ, đồng thời Mẹ cũng nhắc cho loài người phải nghe và thực hành Lời Con Mẹ (Ga 2).
-      Lần II : Khi Đức Giê-su hoàn tất cuộc đời công khai trên thập giá, Mẹ Maria lại hiện diện và được Đức Giê-su trao phó người môn đệ Gioan cho Mẹ chăm sóc (Ga 19,27).
Vậy Con Thiên Chúa toàn năng còn cần đến Mẹ Maria cộng tác từ khởi sự cho đến hoàn thành, huống chi chúng ta là con người hữu hạn lại càng cần phải cậy nhờ Mẹ hằng cứu giúp, đúng với danh hiệu của Mẹ là “Trạng Sư, Đấng Bảo Trợ, Đấng Phù Trợ, Đấng Trung Gian, Đấng Đồng Công Cứu Chuộc” (xem Hiến Chế Hội Thánh số 62). Bởi vì Mẹ vừa là Mẹ Thiên Chúa vừa là Mẹ loài người (Hiến Chế Hội Thánh số 66).’
Chính vì vai trò của Mẹ rất quan trọng trong chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người, nên trong Phụng Vụ của Hội Thánh có 15 Lễ Kính Đức Mẹ :
1-     Lễ Mẹ Thiên Chúa 1-1
2-     Lễ Mẹ Dâng Con Vào Đền Thờ 2-2
3-     Lễ Mẹ Lộ Đức 11-2.
4-     Lễ Truyền Tin 25-3
5-     Lễ Mẹ Đi Thăm Viếng 31-5
6-     Lễ Mẹ Núi Carmelo 16-7
7-     Lễ Cung Hiến Đền Thờ Đức Bà Cả 5-8
8-     Lễ Mẹ Lên Trời 15-8.
9-     Lễ Trinh Nữ Vương 22-8
10- Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ 8-9
11- Lễ Bảy Sự Đau Đớn Đức Mẹ 15-9
12- Lễ Mẹ Mân Côi 7-10
13- Lễ Mẹ Dâng Mình 21-11
14- Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8-12
15- Lễ Trái Tim Đức Mẹ (sau lễ Thánh Tâm)
Khi ta chiêm ngưỡng một pho tượng kỳ diệu, tuyệt tác, thì đương nhiên ta khen nhà điêu khắc tài ba. Do đó khi ta chiêm ngưỡng danh dự và vinh quang của Mẹ Maria, thì ta phải cùng với Mẹ mà cất tiếng tạ ơn “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả” (Lc 1,49).

 

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: