BÀI GIẢNG
CẦU NGUYỆN LÀ CỘNG TÁC
VỚI CHÚA GIÊSU
Kinh Lạy Cha là đúc kết chương
trình cứu độ loài người của Thiên Chúa, Đức Giê-su dạy ta cầu nguyện bằng Kinh
Lạy Cha mà Hội Thánh trong Phụng Vụ chính thức đọc ngày ba lần : một lần trong
Thánh Lễ, hai lần trong Kinh Sáng và Kinh Chiều, để ta biết cách cộng tác với
Thiên Chúa làm hoàn tất chương trình cứu độ, nhờ Đức Giê-su đã khai mở qua mầu
nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
Khi cầu nguyện, trước nhất ta phải
ý thức tương quan giữa mình với Thiên Chúa tùy theo tác giả Mattheu và Luca
nhấn mạnh:
- Theo Mát-thêu : Ta là Hiền Thê của Chúa Ki-tô : Dựa
vào cách ghi của ông Mát-thêu, Đức Giê-su dạy ta : “Lạy Cha chúng con”. Danh hiệu “chúng
con” ở đây, ta phải hiểu là Hội Thánh Chúa Ki-tô, mà Hội Thánh Chúa Ki-tô
là Hiền Thê của Ngài (x Kh 19,7). Do đó, khi đọc Kinh Lạy Cha của Mát-thêu
trong Phụng Vụ, ta phải hiểu đó là tiếng nói của Hiền Thê thưa với Tân Lang
Giê-su (x Mt 6,9-13).
-
Theo Luca : Ta là đứa con thơ dại trong Chúa
Giê-su : Dựa vào cách ghi nhận của ông Lu-ca, Đức Giê-su dạy ta cầu nguyện
: “Lạy Cha” (Abba). “Abba” là tiếng
nói đầu tiên của trẻ thơ mới chớm nở trí khôn, nó bập bẹ kêu lên trước sự hiện
diện của người sinh dưỡng dục nó.
Khi ta đã lãnh Bí tích Thánh Tẩy,
ta là nghĩa tử của Thiên Chúa, tức là người con được sinh ra nhờ, với, trong
Chúa Giê-su (x Cv 2,38). Thánh Thần mở miệng ta biết gọi Thiên Chúa là “CHA”
(Abba), và vì còn là một đứa trẻ thơ không biết kêu xin “CHA”, thì Thánh Thần
sẽ lựa ý Thiên Chúa để chuyển cầu cho, đặc biệt là lúc ta tham dự Phụng Vụ,
nhất là Thánh Lễ (x Rm 8,14-17).
Chính Đức Giê-su, khi Ngài cầu
nguyện với Thiên Chúa, Ngài luôn thưa với Thiên Chúa là “Lạy Cha”. Đan cử :
° Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này (Ga 12,
27).
° Xin Cha làm vinh
hiển Con (Ga 12, 28).
° Xin Cha cất chén
đắng khỏi Con (Lc 22, 42).
° Xin Cha tha cho
chúng (Lc 23, 34).
° Xin Cha đón nhận
hồn Con (Lc 23, 46).
Như thế, khi ta cầu nguyện bằng Kinh
Lạy Cha, thì Đức Giê-su lưu ý đến nhu cầu của ta như chàng quan tâm đến nàng
(theo Mát-thêu), hoặc như cha mẹ hết lòng chăm sóc cho đứa con non dại nhất
trong nhà (theo Lu-ca). Cả hai tương quan này đều dựa trên mãnh lực tình yêu.
Trong tình yêu của ta đối với
Thiên Chúa, khi cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, ta còn ý thức tám điều sau đây
:
1/ Ý thức khi dùng động từ “LẠY” : Từ này chỉ dùng riêng việc thờ lạy Thiên Chúa tối cao, đối với Đức
Mẹ, chúng ta không thờ, nhưng là biệt kính ; còn với các thánh khác, chúng ta
chỉ tôn kính mà thôi.
2/ Ý thức lời cầu : “XIN LÀM CHO DANH THÁNH CHA VINH HIỂN” :
Danh Cha là Thánh: Có nghĩa là Ngài khác
biệt và trổi vượt hơn mọi loài thụ tạo. Bởi vì :
a- Ngài là
ĐẤNG HẰNG CÓ (Giavê) : Ngài không có khởi sự (không có ngày sinh) và
không có tận cùng (bất tử), ngoài Thiên Chúa không có gì hiện hữu tốt đẹp và
không có gì trườngtồn.
b- Ngài là
Đấng TOÀN NĂNG : muốn thế nào có như vậy cách dễ dàng, đặc biệt biến dữ ra
lành, chết ra sống, tội ra ơn.
c- Ngài là
CHÂN, THIỆN, MỸ : ngoài Chúa không có gì đúng, không có gìthánh thiện, không có gì tốt đẹp.
d- Ngài là
TÌNH YÊU : Thiên Chúa chỉ có thương xót, tha thứ và ban ơn.
e- Ngài là
SỰ SỐNG : ngoài Thiên Chúa không có sự sống : sự sống nơi thụ tạo do bởi Thiên
Chúa ban.
Như vậy những gì Thiên Chúa có đều tuyệt
hảo. Ai tìm đến Ngài, Ngài cho họ được tham dự vào điều “CÓ” của Ngài, và như thế là danh Chúa được biểu lộ ra
sự vinh hiển nơi Hiền Thê của Đức Ki-tô (Mt), hay nơi các con cái của Ngài
(Lc).
3/ Ý thức lời cầu : “TRIỀU ĐẠI CHA MAU
ĐẾN” : Mọi sinh hoạt của loài người đều cho chính Chúa làm Chủ,
hướng dẫn, chăm sóc, như thuở xưa dân Do-Thái không có vua, chỉ có Lời Chúa
hướng dẫn, bảo vệ, chăm sóc họ, như họ vẫn cầu nguyện : “Chúa là đồng minh, là thành lũy che chở, là Đấng
giải thoát tôi khỏi tử thần. Phúc cho dân nào được may mắn có Chúa làm Vua” (Tv 144/143/,
2.15). Như thế một quốc gia thăng tiến hay tụt hậu đều lệ thuộc vào một triều
đại, mà không có triều đại nào sánh được với Triều Đại Nước Thiên Chúa.
4/ Ý thức lời cầu : “XIN CHA CHO CHÚNG CON NGÀY NÀO CÓ LƯƠNG
THỰC NGÀY ẤY”: Bởi vì mỗi người cần có 5 lương thực
sau đây để được sống hạnh phúc :
a-
Sống bởi Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến (x Rm 1,17 ; 1Cr
13,13).
b-
Sống bởi có trái tim biết nghe Lời Chúa (x 1V 3,9-13 ; Mt
4,4).
c-
Sống bởi Chúa Giê-su Thánh Thể (x Ga 6,35).
d-
Sống bởi có khả năng thực hành Lời Chúa (x Ga 4,34).
e-
Sống bởi của cải vật chất không thừa không thiếu (x Cn
30,8-9).
Năm lương thực trên người ta chỉ tìm
thấy nhờ tham dự Thánh Lễ cách ý thức và trọn vẹn. Thực vậy : Muốn có ĐỨC TIN, ĐỨC CẬY, ĐỨC MẾN,
ta phải năng dự lễ ; muốn có LỜI CHÚA, phải khao khát nghe giảng ;
muốn Chúa cho sống lại, phải RƯỚC LỄ ; muốn THỰC HÀNH LỜI CHÚA phải có Chúa ở
cùng, và muốn có ĐỦ CỦA CẢI VẬT CHẤT, phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa (dự Lễ) trước đã (x Mt 6, 33). Và như thế linh hồn ta cần tới bốn nguồn sống, trong khi
đó thân xác chỉ có một là của cải vật chất.
Năm bánh hằng sống trên đây đã được Chúa
tiên báo khi Ngài dùng năm bánh để nuôi một đoàn dân đông không đếm được, họ
đang đói mệt lả người mà được ăn no, lại còn dư 12 thúng! (x Ga 6).
Vậy mỗi ngày ta cần đi dự Lễ để có lương
thực hằng ngày (x Lc 11,3 : Tin Mừng), còn cần hơn xưa mỗi ngày dân Do-Thái
phải đi lượm manna ăn để mới có sức tiến vào đất Chúa hứa (x Xh 16,4-5).
5/ Ý thức lời cầu : “CHO CHÚNG CON” : Ngài không dạy ta “xin cho con” mà là “xin cho chúng con”
. Vì mỗi người chỉ thực sự được hạnh phúc, khi họ sống giữa những người đầy
tràn hạnh phúc. Như thế, quan tâm chăm sóc cho mọi người mới chính là chăm lo
cho bản thân. Thánh Phan-xi-cô nói : “Chính
lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Kinh Hòa Bình). Cụ thể ông Gióp
suốt thời gian bị ma quỷ quấy phá, làm ông quá khổ, những ngày đầu ông còn chịu
đựng, vẫn dâng lời tạ ơn : “Chúa đã ban
cho Ngài lại lấy đi, xin tạ ơn Chúa” (G 1,21b). Nhưng sau này vì sự chịu
đựng con người có giới hạn, ông lại cất tiếng than : “Tại sao tôi không chết đi vừa lúc chào đời, không tắt thở ngay khi lọt
lòng mẹ” (G 3,11). Sau những ngày dài Chúa huấn luyện ông qua gian khổ, ông
đã mở rộng tầm con mắt : biết cầu nguyện
cho các bạn hữu của mình, thì Chúa ban gia tăng gấp đôi những gì ông đã mất về
tài sản, và Chúa cho ông sinh thêm bảy trai ba gái xinh đẹp, khỏe mạnh thông
minh hơn trước (x G 42,10t).
Vậy ta hãy xin cho mọi người nhận
biết Thiên Chúa là Cha chung, và tất cả đều bình đẳng trong tình anh em con một
nhà, và như thế Thiên Chúa được nhận biết là Cha vô cùng giàu có, đầy tình
thương sẵn sàng ban phát ơn.
6/ Ý thức lời cầu : “XIN THA TỘI CHO CHÚNG CON, VÌ CHÍNH
CHÚNG CON CŨNG THA CHO MỌI NGƯỜI MẮC LỖI VỚI CHÚNG CON” (Lc 11, 4) : Chúa tha tội cho ta
như vua tha nợ cho bầy tôi một món nợ vượt sức hắn trả. Nhưng nếu ta không tha lỗi
cho đồng loại, thì Chúa cũng không tha tội
cho ta, như vua ra lệnh tống ngục tên đầy tớ vừa được vua tha bổng món nợ
kếch xù, mà hắn lại không tha cho người bạn mắc nợ hắn có 100 đồng chỉ xin khất !(x Mt 18, 23t).
Do đó nếu ta
xin Chúa tha nợ cho ta, như ta tha cho kẻ có nợ với ta, thì té ra hai món nợ
bằng nhau, trong khi đó ta xúc phạm đến Thiên Chúa rất nặng nề, còn đồng loại
xúc phạm đến ta chẳng đáng gì ! Bởi vì ta cũng là tội nhân !
7/ Ý thức lời cầu : “XIN ĐỪNG ĐỂ CHÚNG CON SA CHƯỚC CÁM DỖ” (Lc 11,4b) :
Tội người ta phạm còn có ý Chúa trong đó (x 2 Cr 12,7-9), nhưng ít là biết nhận
ra điều xấu mình đã vi phạm mà sám hối, khắc khoải xin Chúa xót thương, như tên
trộm lành (x Lc 23,43), thì Chúa lại biến tội ra ơn, đến nỗi thánh Phao-lô nói : “Ở đâu
tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chan chứa” (Rm 5,20). Kẻ bị sa chước cám
dỗ giống như Adam, Evà nghe lời xúi giục của qủy, gạt Lời Chúa ra khỏi cuộc
sống, tự định đoạt tốt xấu hướng dẫn hành động của mình, đã phát sinh sự chết
truyền đến cả giống nòi! (x St 3).
8/ Ý thức lời cầu : MỌI KI-TÔ HỮU PHẢI GIÚP NHAU NÊN THÁNH,
VÌ CÙNG LÀ CON MỘT CHA TRÊN TRỜI : Ta biết Hội
Thánh là một gia đình : Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau. Đó là
lý do thánh Phao-lô, dù là Tông Đồ xuất sắc trổi vượt hơn các Tông Đồ khác,
nhưng ông vẫn tỏ ra tùng phục “những người anh trong Nhà Cha” mà ông gọi là
“các Tông Đồ thượng đẳng”, như các ông Phê-rô, Gia-cô-bê. Ông Phao-lô sau ba
năm đã được học giáo lý riêng với Chúa ở Ả-Rập, ông về đoàn tụ với gia đình Hội
Thánh tại Giê-ru-sa-lem, để nhận quyền “những người anh” sai đi rao giảng Tin
Mừng cho dân ngoại (x Gl 1,18). Rồi 14 năm sau, ông Phao-lô cùng với ông
Ba-na-ba và ông Ti-tô lại lên Giê-ru-sa-lem để được Thiên Chúa mạc khải, rồi
trình bày cho các Tông Đồ có thế giá Tin Mừng các ông đã rao giảng cho dân
ngoại, nếu không như thế thì việc phục vụ của ông trở nên vô ích. Tuy nhiên,
ông vẫn phải có trách nhiệm với các anh em trong gia đình Nhà Cha. Đan cử : Khi
ông biết vị thủ lãnh Hội Thánh là Phê-rô đã có lối sống giả hình : dùng bữa với
người chưa cắt bì, nhưng khi gặp “các người của ông Gia-cô-bê
đến, ông lại tránh né tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì. Ông đã làm cho
những người Do Thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông
Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.
Ông Phê-rô sống như thế không
đúng theo chân lý của Tin Mừng, nên ông Phao-lô đã trách ông Phê-rô trước mặt
mọi người : “Nếu ông là người Do Thái mà còn sống như dân ngoại, chứ không như
người Do Thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do
Thái”
(x Gl 2, 1-2.7-17 : Bài đọc).
Như vậy, không phải ông Phao-lô thiếu
kính trọng thủ lãnh Phê-rô, mà vì ông yêu Hội Thánh, yêu người anh em Phê-rô, muốn
người anh em phải sống gương mẫu, đừng giả hình! Bởi vì “yêu hoa
không có nghĩa là yêu cả con sâu nằm trong bông hoa, nhưng phải tìm cách diệt
con sâu đó, dù có phải làm rụng phấn hoa!” (phaolomoi.net).
Có như thế mới thực thi được Lời Chúa
truyền : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng” (Mc 16,15 :
Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Năm lương thực cần dùng mỗi ngày
ta phải xin Chúa là :
1- Thiếu TIN, CẬY, MẾN, là chết (x Rm 1,17 ;
1Cr 13,13).
2- Chết nhờ THÁNH THỂ, vẫn sống (x Ga 6,35).
3- Sống nhờ THỰC HÀNH LỜI CHÚA (x Ga 4,34).
4- Chúa cho TRÁI TIM NGHE LỜI (x 1V
3,9-13 ; Am 8,11).
5- Lời Chúa ban CỦA ĐỦ
DÙNG (x Cn 30,8-9)