BÀI GIẢNG
THIÊN THẦN HỘ THỦ
Giáo Lý Công Giáo dạy: “Sự hiện
hữu của các hữu thể thiêng liêng không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý Đức Tin.
Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế” (số 328).
“Chân
lý Đức Tin” thì vượt lý trí con người, ta chỉ có thể đón nhận được chân lý
này với lòng khiêm tốn và tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa toàn năng, toàn
tri, toàn thiện, luôn mạc khải cho ta những điều hữu ích.
Mạc khải không nói rõ Chúa dựng
nên thiên thần vào lúc nào. Mạc khải cho ta biết “mục đích Chúa dựng nên thiên thần để sai đi giúp đáp vì phần ích những
kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu độ” (Dt 1,14).
Cụ thể như thiên thần Gabriel mang
sứ điệp Truyền Tin (x Lc 1,19.26) ; một đạo binh các thiên thần trên Thiên Quốc
hát mừng trong đêm Giáng Sinh (x Lc 2,9-14) ; các thiên thần còn báo tin Chúa
Giê-su Phục Sinh (x Mt 28,5t) và thông báo cho các môn đệ Đức Giê-su hiểu biết ý
nghĩa việc Chúa Giê-su Thăng Thiên (x Cv 1,10t). Thiên thần còn có sứ mệnh phụ
tá Đức Ki-tô Giê-su trong việc cứu độ nhân loại, các thiên thần chăm sóc, gìn
giữ loài người (x Cv 12,15) và mỗi người Công Giáo (những kẻ bé mọn) được các
thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa Cha (x Mt
18,10: Tin Mừng), để dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các thánh (x Kh 5,8 ;
8,3), cùng dẫn đưa linh hồn người công chính vào Thiên Đàng (x Lc 16,22).
Có một mối dây liên lạc mật thiết
nối kết Phụng Vụ trần thế với Phụng Vụ Thiên Quốc: trên trời các thiên thần cử
hành Phụng Vụ vĩnh cửu (x Kh 4,8-11), mà Phụng Vụ Giáo Hội ở trên dương thế
cũng cùng hiệp thông, như trong kinh Vinh Danh và trong kinh Tiền Tụng.
Tuy vậy, các thiên thần không được
phúc ngắm nhìn Lời Thiên Chúa (x 1Pr 1,12). Cụ thể ngôn sứ Isaia vào Đền Thờ
thấy thiên thần Sêraphim chầu hầu bên Hòm Bia Thiên Chúa, phải lấy hai cánh che
mặt (x Is 6,2) ; và Chúa cũng không bao bọc một thiên thần nào, Ngài chỉ bao
bọc dòng giống Abraham: những người tin tưởng tuyệt đối vào Lời Thiên Chúa để
hành động (x Dt
2,16).
Có loại thiên thần ánh sáng
(Lucipher) đã kiêu ngạo tức khắc bị lãnh án phạt: “Hỡi tinh tú rạng ngời, con của bình minh,chẳng lẽ ngươi đã từ trời sa
xuống rồi sao? Này, kẻ chế ngự các dân tộc, ngươi đã bị hạ xuống đất rồi
ư? Chính ngươi đã tự nhủ: "Ta sẽ
lên trời: ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao của Thiên Chúa; ta sẽ
ngự trên núi Hội Ngộ, chốn bồng lai cực bắc.Ta sẽ vượt ngàn mây thẳm, sẽ nên
như Đấng Tối Cao." Nhưng ngươi lại
phải nhào xuống âm phủ, xuống tận đáy vực sâu”(Is 14,12-15).Chính
Chúa Giê-su cũng đã xác định như vậy: “Ta
đã thấy satan như chớp nhoáng tự trời sa xuống” (Lc 10,18).
Satan có nghĩa là địch thủ ; hoặc
quỷ có nghĩa là kẻ vu khống, nó hiện diện như cùng với các thiên thần tốt lành
tại triều đình Thiên Chúa, chu toàn nơi tòa án Thiên Quốc một nhiệm vụ giống
như một biện lý công cộng, có bổn phận bắt người trần thế phải tôn trọng công
lý và quyền lợi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dưới chiêu bài phục vụ Thiên Chúa,
chúng ta nhận ra nó là kẻ lừa gạt muốn lôi kéo người ta không còn tin vào Thiên
Chúa nữa (x Giop 1-3). Nó đội lốt hình con rắn ghen với hạnh phúc của loài
người (x St 2,24), vì nó rất thông minh và khôn khéo, dụ dỗ được nguyên tổ loài
người làm theo ý nó thì tốt hơn là làm theo ý Chúa (x St 3). Như thế vài trò
cốt yếu của nó là cám dỗ, cố gắng xúi giục người ta phạm tội (x 1Tx 3,5 ; 1Cr
7,5), và như thế đặt loài người chống lại Thiên Chúa (x Cv 5,3), nhưng nó
thường xuất hiện dưới dạng phản Ki-tô (x 2 Tx 2,7t). Quỷ khủng khiếp vì mưu mô,
cạm bẫy, lừa dối và thủ đoạn (x 2Cr 2,11 ; Ep 6,11 ; 1Tm 3,7).Satan ngụy trang
thành thiên thần ánh sáng (x 2Cr 11,14). Nhưng nó bị đánh bại bởi cây Thập Giá
của Chúa Ki-tô (x Ep 6,10) và kinh nguyện của loài người (x Mt 6,13). Chỉ kẻ
nào thuận theo satan mới bị chiến bại (x Gc 4,7 ; Ep 4,27). Satan sẽ bị ném vào
biển diêm sinh bốc lửa, nó sẽ chết lần thứ hai (x Kh 20,10.14t).
Vậy ta không được tin vào thuyết
nhị nguyên là trong thế giới này có thần lành và thần dữ luôn đấu đá với nhau,
khi nào thần lành thắng thì ta hạnh phúc ; khi nào thần dữ thắng thì ta khổ! Mà
phải tin rằng mọi kẻ thù đều làm bệ kê chân Đức Ki-tô, đến nỗi “trước danh hiệu của Đức Ki-tô, mọi gối đều
phải quỳ xuống bái lạy, chốn hoằng thiên, trên địa cầu, dưới gầm đất, và mọi
miệng lưỡi phải tuyên xưng: Giê-su Ki-tô
là Chúa mà làm vinh hiển cho Thiên Chúa Cha” (Pl 2,9-11).
Mỗi người Công Giáo được Chúa sai
thiên thần đến chăm sóc, như Ngài nói: “Này Ta sai thiên sứ đi trước mặt ngươi, để
gìn giữ ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. Trước mặt người
hãy ý tứ nghe Lời người. Đừng làm cho người phải chịu cay đắng ; người sẽ không
tha lỗi lầm cho các ngươi, vì danh Ta ngự trong người” (Xh 23, 20-21: Bài
đọc).
Chúa đã dặn mỗi người chúng ta
phải ý tứ nghe Lời thiên thần, nghĩa là phải thực hành Lời Chúa Giê-su dạy: “Muốn
làm lớn phải hoán cải nên như trẻ nhỏ và hạ mình như trẻ nhỏ (x Mt
18,1-4: Tin Mừng).
I.
Phải hoán cải trở nên trẻ nhỏ: Có nghĩa là phải
được tái sinh trong Chúa Giê-su
Thực vậy, ai không
được sinh lại bởi Chúa Giê-su, dù người ấy có địa cao, thì trước mặt Chúa họ
cũng chỉ là một sinh vật (x 1Cr 15,45), chẳng khác loài thú đều phải chết (x Gv
3,18-19). Mà ý định ngàn đời của Thiên Chúa là “con người phải nên giống hình ảnh Thiên Chúa” (x St 1,26). Không phải giống
Thiên Chúa vô hình mà là giống Con Thiên Chúa làm người: Đức Giê-su Ki-tô. Do
đó ta phải được tái sinh qua Bí tích để được đồng hóa với Đức Giê-su (Gl 2,20).
Đó là lý do Đức
Giê-su nói về ơn tái sinh với ông Ni-cô-đê-mô: “Quả thật, quả thật, tôi bảo ông: ai không bởi Trên sinh ra, thì không
thể thấy được Nước Thiên Chúa”, làm ông thắc mắc: không lẽ người đã già lại
có thể chui vào lòng mẹ lại sinh ra làm con nít ? Thì Đức Giê-su lại nhấn mạnh: “Ai không sinh bởi nước và Thần
Khí, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3, 3-5).
Một khi ta đã được
tái sinh làm con Thiên Chúa, ta được đồng hóa với Chúa Giê-su (x Gl 2,20), cùng một xương thịt
với Ngài (x Dt 2,11), cùng một sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6,57), và cùng quyền năng
như Thiên Chúa (x Ga 14,12). Người như thế chắc chắn được Chúa Giê-su khen: “Họ là
kẻ nhỏ trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông Gioan Bt, mặc dù ông Gioan là người cao cả nhất trong những người
do người nữ sinh ra” (x Mt 11,11).
Xét về mặt tình
cảm trong gia đình, ai nhỏ nhất, người ấy làm vua. Bởi lẽ cả gia đình phải quan
tâm chăm sóc, trìu mến đứa con sơ sinh. Cũng chính vì vậy mà trong ngày Đức
Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, báo hiệu ý muốn của Thiên Chúa là loài
người phải được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Ngày ấy, tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người” (Mt 3,17). Tiếng ấy, Chúa Cha muốn nói về những người được tái sinh
trong Con yêu dấu của Ngài.
Vậy ai được tái sinh làm con Thiên
Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha thì cũng được Hội Thánh là Mẹ ôm vào lòng: “Được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang,
như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ ; được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối,
khiến thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh” (Is 66, 10-14c).
II. Sống tinh thần trẻ thơ. Cụ thể
phải là :
-
Vâng
phục cha mẹ.
-
Sống
không có ác tâm.
-
Không
đòi ai quan tâm tôn mình lên.
-
Luôn
sống vươn tới sự trưởng thành.
-
Sống
lệ thuộc vào đấng sinh thành.
-
Sống
bằng tình yêu.
1/ Vâng phục cha mẹ. Trẻ nào không vâng phục cha mẹ, không thể thành công
làm lớn trong xã hội được. Đức Giê-su muốn kẻ đã thuộc về Ngài phải đi con
đường khiêm nhu, hạ mình phục vụ theo ý Cha trên trời dù phải chết nhục nhã đau
khổ, như thế để học biết thế nào là Con vâng phục Cha, nhưng cuối cùng được
Chúa Cha tôn vinh Con, đến nỗi trên trời dưới đất ai nghe danh Con, mọi đầu gối
phải sụp lạy bái quỳ (x Pl 2,6-11).
2/ Không có ác tâm: Thánh Phao-lô nói: “Có ác thì như con nít thôi” (1Cr 14,20). Thực vậy, trẻ con chơi với
nhau thế nào cũng có lúc bất hòa, chúng mếu máo khóc lóc chạy đi mách ông bà
cha mẹ, nhưng lát sau chúng lại vui đùa với nhau bình thường, đó là “cái ác”
của trẻ thơ ; khác hẳn người trưởng thành, bề ngoài xem ra thân thương, hòa
thuận, nhưng trong lòng tìm mưu kế hại nhau.
3/ Không đòi ai quan tâm tôn mình lên. Cụ thể: trong bữa tiệc, những
người có chức vị thì được tôn trọng mời lên chỗ danh dự, còn đàn bà con nít thì
không đáng kể (x Mt 14,21). Vậy ta phải
sống khiêm tốn hạ mình sát đất thì không còn khoảng cách nào để phải sợ té!
4/ Luôn sống vươn
tới sự trưởng thành.
Thánh Phao-lô nói: “Khi tôi còn là trẻ
con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con;
nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con”
(1Cr 13,11). Bởi vì ai cũng biết con nít nói trước hiểu sau, còn người trưởng
thành thì phải nghĩ trước, hiểu rồi mới nói. Vậy ta phải chăm học hỏi giáo lý,
Kinh Thánh, vì “khởi điểm đạt tới Đức
Khôn Ngoan là thật lòng ham muốn học hỏi” (Kn 6,17).
5/ Sống lệ thuộc vào đấng sinh thành. Thánh Phao-lô muốn các Ki-tô hữu
phải sống lệ thuộc vào Thiên Chúa, như trẻ thơ trong gia đình phải lệ thuộc vào
cha mẹ: chúng muốn gì phải được phép của cha mẹ, mặc dù mọi vật trong gia đình
cha mẹ mua sắm là dành cho con cái (x Gl
4,1-3). Vậy bất cứ làm việc gì, ta phải cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn.
6/ Sống bằng tình yêu. Trẻ thơ không bao giờ bận tâm lo ăn gì, uống gì,
mặc gì? Cũng chẳng sợ kẻ thù nào, nếu nó được nép mình trong tay cha mẹ. Thiên
Chúa muốn con cái Ngài sống tinh thần đó, như Lời Kinh Thánh nói: “Lòng
con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi! Đường cao vọng, chẳng
đời nào bước,việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ
cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn
lặng lẽ an vui. Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm”
(Tv 131/130,1-3).
Ai sống Lời Chúa Giê-su dạy trên
đây, thì được Ngài xác nhận: Người ấy đã đón tiếp chính Ngài (x Mt 18,5: Tin
Mừng). Và như thế mới được “Chúa truyền
cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường” (Tv 91/90,11: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Thiên thần là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ
Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ (Dt 1,14).