SỐNG YÊU NHƯ TRẺ THƠ
THÁNH
TÊ-RÊ-SA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU
Trinh Nữ-Tiến sĩ Hội Thánh
Thánh nữ Tê-rê-sa
Hài Đồng Giê-su sinh ngày 2 tháng giêng năm 1873, con của đôi vợ chồng muốn đi
tu nhưng không thành, nên cả cha mẹ của Tê-rê-sa đều ước mơ sinh con và giáo
dục chúng, mong hiến dâng con phục vụ Hội Thánh. Lần kia Tê-rê-sa được người
cha chỉ lên trời và nói : “Con nhìn ngắm trăng sao thấy thế nào ? Tê-rê-sa thưa
: “Đẹp quá cha ơi”, nhưng người cha nói : “Các ngôi sao kết thành chữ T, tên
con đã được ghi ở trên trời”. Câu nói ấy làm cho Tê-rê-sa rất phấn khởi, hằng
ngày luôn cầu nguyện xin Chúa đừng xóa tên Tê-sê-sa đã được kết bằng những ngôi
sao trên trời. Trong cuốn Tự Thuật, Tê-rê-sa viết : “Em đọc Kinh Thánh, tình cờ bắt gặp chương 12 và 13 thư thứ nhất gởi tín
hữu Corintho… Khi đọc chương trước, em thấy rằng không phải ai cũng có thể làm
Tông Đồ, ngôn sứ hay thầy dạy. Em cũng thấy rằng Hội Thánh gồm nhiều phần tử
khác nhau, và mắt không thể vừa là mắt, vừa là tay được ! Em tiếp tục đọc câu
sau đây làm em nhẹ nhõm tâm hồn : “Anh em hãy tha thiết kiếm tìm những ơn cao
trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả”. Và
thánh Phao-lô giải thích rằng mọi ơn hoàn hảo nhất chẳng là gì cả nếu không có tình yêu, và Đức Ái là con đường
tuyệt hảo, chắc chắn dẫn tới Thiên Chúa,cuối cùng em được bình an thư thái.
Khi suy nghĩ về Thân Thể Mầu Nhiệm của Hội Thánh, em
chẳng thấy mình thuộc loại chi thể nào trong các loại thánh Phao-lô mô tả, hay
đúng ra em muốn thấy mình có mặt trong mọi loại chi thể đó. Đức Ái đã cho em
chìa khóa để tìm ra ơn gọi của em. Em hiểu rằng nếu Hội Thánh có một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu chi thể cần
thiết nhất và cao quý nhất. Em hiểu rằng Hội Thánh có một trái tim và trái tim
đó bùng cháy tình yêu. Em hiểu rằng chỉ có tình yêu mới làm cho các phần tử của
Hội Thánh hoạt động và nếu tình yêu tắt ngúm thì các Tông Đồ sẽ chẳng loan báo
Tin Mừng nữa, các vị Tử Đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình ra. Em hiểu rằng tình yêu
bao trùm mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả, nó bao trùm mọi nơi mọi thời. Tắt
một lời : tình yêu tồn tại mãi mãi.
Bấy giờ vào lúc tình yêu dạt dào ngây ngất, em đã reo
lên : “Ôi Giê-su, Tình Yêu của con, ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy
ơn gọi của con chính là tình yêu”.
Lên 15 tuổi,
Tê-rê-sa muốn dâng mình trong Dòng Kín, nhưng với tuổi ấy Luật Dòng không cho
phép nhận em, Tê-rê-sa được theo cha mẹ đích thân đến xin Đức Giáo hoàng cho em
được đặc cách vào Dòng Kín. Hôm ấy, ĐGH mỉm cười và nói với Tê-rê-sa : “Con còn
nhỏ quá”. Và ngài lấy hộp kẹo đưa trước mặt Tê-rê-sa và nói : “Con ăn kẹo đủ
rồi, thích bao nhiêu thì bốc lấy”. Tê-rê-sa suy nghĩ một lát giơ vạt áo rồi
thưa : “Xin ĐGH bốc giúp con, vì tay con
nhỏ quá!” ĐGH nhận ngay ra tuổi em còn nhỏ, nhưng suy nghĩ rất khôn ngoan, do
đó ngài chấp nhận cho Tê-rê-sa được vào tu trong Dòng Kín.
Sống trong Dòng,Tê-rê-sa
hằng tâm niệm Lời Chúa nói : “Thầy bảo
thật anh em : nếu anh em không hoán cải nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào
Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như trẻ nhỏ, người ấy là người lớn nhất trong
Nước Trời” (Mt 18,3-4 : Tin Mừng).
I. Phải hoán cải trở nên trẻ nhỏ : Có nghĩa là phải được tái sinh trong Chúa
Giê-su
Thực vậy, ai không
được sinh lại bởi Chúa Giê-su, dù người ấy có địa cao, thì trước mặt Chúa họ
cũng chỉ là một sinh vật (x 1Cr 15,45), chẳng khác loài thú đều phải chết (x Gv
3,18-19). Mà ý định ngàn đời của Thiên Chúa là “con người phải nên giống hình ảnh Thiên Chúa” (x St 1,26). Không phải giống
Thiên Chúa vô hình mà là giống Con Thiên Chúa làm người : Đức Giê-su Ki-tô. Do
đó ta phải được tái sinh qua Bí tích để được đồng hóa với Đức Giê-su (Gl 2,20).
Đó là lý do Đức
Giê-su nói về ơn tái sinh với ông Ni-cô-đê-mô : “Quả thật, quả thật, tôi bảo ông : ai không bởi Trên sinh ra, thì không
thể thấy được Nước Thiên Chúa”, làm ông thắc mắc : không lẽ người đã già
lại có thể chui vào lòng mẹ lại sinh ra làm con nít ? Thì Đức Giê-su lại nhấn mạnh : “Ai không sinh bởi nước và Thần
Khí, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3, 3-5).
Một khi ta đã được
tái sinh làm con Thiên Chúa, ta được đồng hóa với Chúa Giê-su (x Gl 2,20), cùng một xương thịt
với Ngài (x Dt 2,11), cùng một sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6,57), và cùng quyền năng
như Thiên Chúa (x Ga 14,12). Người như thế chắc chắn được Chúa Giê-su khen : “Họ là
kẻ nhỏ trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông Gioan Bt, mặc dù ông Gioan là người cao cả nhất trong những người
do người nữ sinh ra” (x Mt 11,11).
Xét về mặt tình
cảm trong gia đình, ai nhỏ nhất, người ấy làm vua. Bởi lẽ cả gia đình phải quan
tâm chăm sóc, trìu mến đứa con sơ sinh. Cũng chính vì vậy mà trong ngày Đức
Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, báo hiệu ý muốn của Thiên Chúa là loài
người phải được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Ngày ấy, tiếng Chúa Cha phán : “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người” (Mt 3,17). Tiếng ấy, Chúa Cha muốn nói về những người được tái sinh
trong Con yêu dấu của Ngài.
Vậy ai được tái sinh làm con Thiên
Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha thì cũng được Hội Thánh là Mẹ ôm vào lòng : “Được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang,
như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ ; được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối,
khiến thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh” (Is 66, 10-14c : Bài đọc).
II. Sống tinh
thần trẻ thơ. Cụ thể phải là :
-
Vâng
phục cha mẹ.
-
Sống
không có ác tâm.
-
Không
đòi ai quan tâm tôn mình lên.
-
Luôn
sống vươn tới sự trưởng thành.
-
Sống
lệ thuộc vào đấng sinh thành.
-
Sống
bằng tình yêu.
1/ Vâng phục cha mẹ. Trẻ nào không vâng phục cha mẹ, không thể thành công
làm lớn trong xã hội được. Đức Giê-su muốn kẻ đã thuộc về Ngài phải đi con
đường khiêm nhu, hạ mình phục vụ theo ý Cha trên trời dù phải chết nhục nhã đau
khổ, như thế để học biết thế nào là Con vâng phục Cha, nhưng cuối cùng được
Chúa Cha tôn vinh Con, đến nỗi trên trời dưới đất ai nghe danh Con, mọi đầu gối
phải sụp lạy bái quỳ (x Pl 2,6-11).
2/ Không có ác tâm : Thánh Phao-lô nói : “Có ác thì như con nít thôi” (1Cr 14,20). Thực vậy, trẻ con chơi với
nhau thế nào cũng có lúc bất hòa, chúng mếu máo khóc lóc chạy đi mách ông bà
cha mẹ, nhưng lát sau chúng lại vui đùa với nhau bình thường, đó là “cái ác”
của trẻ thơ ; khác hẳn người trưởng thành, bề ngoài xem ra thân thương, hòa
thuận, nhưng trong lòng tìm mưu kế hại nhau.
3/ Không đòi ai quan tâm tôn mình lên. Cụ thể : trong bữa tiệc, những
người có chức vị thì được tôn trọng mời lên chỗ danh dự, còn đàn bà con nít thì
không đáng kể (x Mt 14,21). Vậy ta phải
sống khiêm tốn hạ mình sát đất thì không còn khoảng cách nào để phải sợ té!
4/ Luôn vươn tới sự trưởng thành. Thánh Phao-lô nói : “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ
con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người
lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1Cr 13,11). Bởi vì ai cũng
biết con nít nói trước hiểu sau, còn người trưởng thành thì phải nghĩ trước,
hiểu rồi mới nói. Vậy ta phải chăm học hỏi giáo lý, Kinh Thánh, vì “khởi điểm đạt tới Đức Khôn Ngoan là thật
lòng ham muốn học hỏi” (Kn 6,17).
5/ Sống lệ thuộc vào đấng sinh thành. Thánh Phao-lô muốn các Ki-tô hữu
phải sống lệ thuộc vào Thiên Chúa, như trẻ thơ trong gia đình phải lệ thuộc vào
cha mẹ : chúng muốn gì phải được phép của cha mẹ, mặc dù mọi vật trong gia đình
cha mẹ mua sắm là dành cho con cái (x Gl 4,1-3). Vậy bất cứ làm
việc gì, ta phải cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn.
6/ Sống bằng tình yêu. Trẻ thơ không bao giờ bận tâm lo ăn gì, uống gì,
mặc gì? Cũng chẳng sợ kẻ thù nào, nếu nó được nép mình trong tay cha mẹ. Thiên
Chúa muốn con cái Ngài sống tinh thần đó, như Lời Kinh Thánh nói : “Lòng
con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi! Đường cao vọng, chẳng
đời nào bước,việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ
cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn
lặng lẽ an vui. Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm”
(Tv 131/130,1-3).
Thực vậy, Tê-rê-sa luôn áp dụng
tình yêu vào mọi sinh hoạt trong cuộc sống : Lần kia, Tê-rê-sa cùng với các chị
em trong Dòng làm vệ sinh nhà, một chị vô ý làm bể chiếc bình quý. Vừa lúc ấy
Mẹ Bề Trên đi qua, thấy vậy, liền mắng xối xả vào Tê-rê-sa vì cho là cô bé chưa
đủ thận trọng trong việc làm. Tê-rê-sa định lên tiếng bào chữa không phải mình,
nhưng chị nghĩ ngay phải sống tình yêu : im lặng là tốt, vì nếu nói ra chị kia
vừa bị mắng, Mẹ Bề Trên lại thêm những lời gay gắt hơn và còn hối hận vì đã mắng
lầm Tê-rê-sa.
Tê-rê-sa được Chúa gọi về ngày 30
tháng 9 năm 1897, hưởng dương 24 tuổi. Như thế Tê-rê-sa chỉ sống trong Dòng mới
được 9 năm, mà được Hội Thánh tôn phong làm thánh Tiến sĩ, chỉ vì chị muốn thể
hiện sống yêu, để chi phối tất cả các chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa
Ki-tô. Mà thực, không có tình yêu thì không thể làm mục tử chăm sóc đoàn chiên Chúa
trao được. Bởi đó, trước khi Đức Giê-su trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho ông
Phê-rô, Ngài chỉ đòi ông tới ba lần : “Con
có yêu Thầy không?” (Ga 21, 15t). Vì “thế
giới sẽ thuộc về tay ai biết yêu mến” (thánh Gioan Maria Vianey).
Vậy đối với người nhờ hoán cải nên
trẻ thơ và hạ mình sống bằng tình yêu, mới cất lời cầu : “Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi” (Tv
131/130 : Đáp ca).
Trong một thị kiến tôi thấy : Một
đoàn người đứng trước cửa Trời, ai cũng mong được vào trước, nhưng những kẻ
thấp cổ bé miệng thì không dám dành với những người có chức quyền. Khi Thánh
Phê-rô mở cửa Trời, Chúa từ trong Cung Điện bước ra, Ngài gặp một vị mặc áo cẩm
bào, đội mũ cà cuống, cầm gậy rồng đứng trước, Chúa hỏi :
-
Ngươi
là ai?
-
Dạ,
thưa con là Giáo hoàng.
-
Đứng
ra một bên, đợi đã.
Người khác tiến đến, mặc áo vét-tông,
thắt cà-vạt, Chúa hỏi :
-
Ngươi
là ai?
-
Dạ
con là Tổng thống.
-
Đứng
bên cạnh chờ.
………….
Một cụ già lụ khụ chống gậy đến,
Chúa hỏi :
-
Ngươi
là ai ?
-
Dạ,
con là con nít ạ.
-
Vô,
vô con, lẹ lên !
THUỘC LÒNG
Tình yêu Đức Ki-tô thúc bách tôi ! (2Cr
5,14)