BÀI GIẢNG
Thánh sử Mathew
LÀM TÔNG ĐỒ CỦA ĐỨC KI-TÔ
Đức Giê-su không
chỉ muốn chọn 12 người Do Thái làm Tông Đồ để xây dựng Hội Thánh, mà Ngài còn
muốn chọn muôn dân cùng chung tay góp sức làm cho ơn cứu độ bao trùm cả thế
giới (x Mt 28,10-20).
Để trở thành Tông
Đồ của Đức Ki-tô, hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng và học hỏi ơn
gọi làm Tông Đồ của ông Mat-thêu :
-
Ý thức về tội của mình.
-
Năng hiệp dâng Thánh Lễ.
-
Chọn việc tốt nhất.
I. Ý
THỨC VỀ TỘI CỦA MÌNH.
Càng ý thức mình là kẻ tội lỗi mà
đi theo Chúa Giêsu thì càng làm vinh danh ngài. Đó là lý do Đức Giê-su nói: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính,
mà là những kẻ tội lỗi." (Mt 9,13b: Tin Mừng).
Chúa không kêu gọi người công
chính là Ngài không kêu gọi người tự mãn vào việc tuân giữ Lề Luật Mô-sê mà
khinh dể người khác (x Lc 18,9), đến nỗi trở nên những kẻ quyết liệt chống đối
Đức Giê-su, và không muốn cho ai theo Ngài (x Ga 7,47-48).
Trước mặt Thiên Chúa không ai được
kể là người công chính (x Tv 143/142,2). Đó là lý do thánh Phao-lô nhắc lại Lời
Kinh Thánh: “Không có ai công chính, một
người cũng không. Hết thảy đều lầm lạc hư đốn cả lũ. Hành thiện không còn có
ai, một người cũng không” ( Tv 14/13,1-3 =
Rm 3,10-12). Vì lẽ đó mà “Luật lập
ra cho loài người vô luân, chứ không phải cho người được công chính trong Chúa
Ki-tô” (1Tm 1,9). Nhưng “ai đã được
công chính trong Chúa Ki-tô, thì phải là người ngao ngán cực phiền trước thói
phóng đãng của lũ người phi pháp” (2 Pr 2,7).
“Vi trùng phi pháp” xâm nhập linh
hồn người ta, duy chỉ có “Lương Y Giêsu” mới chữa lành (x Cv 4,12). Bởi thế Giê-su
trả lời cho kẻ chê trách Ngài đã dùng bữa với bọn thu thuế và quân tội lỗi: “Có
cần đến lương, hẳn không phải là người lành
mạnh mà là kẻ đau ốm. đi mà học lời này là gì: Ta chuộng nhân nghĩa chứ
không phải là lễ tế.” (Mt 9,12-13a: Tin Mừng).
Sở dĩ người ta kết án ông Lêvi
(Matthêu) làm nghề thu thuế là kẻ có tội vì hai lý do :
1-
Người thu thuế dễ lạm dụng quyền do đế quốc Roma cho: vì Roma không trực
tiếp đứng ra thu thuế người Do-thái, mà họ trao cho người địa phương thầu.
Người thu thuế chỉ cần nộp đủ số tiền thuế Roma đã quy định, nên họ dễ dựa vào
kẽ hở của Luật để tìm cách thu cao hơn mức thuế đã ấn định mà người dân phải
nộp. Đó là cách gian lận để làm giàu. Chính ông Giakêu cũng đã thú nhận điều
này với Đức Giê-su, khi ông xin đền gấp
bốn đối với những ai ông đã làm thiệt hại (x Lc 19,8b).
2- Người thu thuế dưới cái nhìn của dân Do-thái
còn phạm thêm hai loại tội :
·
Phản quốc: lấy thuế của dân tộc nộp cho
ngoại xâm, là củng cố ách thống trị của đế quốc đang đè nặng trên dân tộc ! Đó
là hành động “rước voi về giày mồ”.
·
Phản đạo: vì người Do-thái vẫn hằng tin
tưởng vào Thiên Chúa mà cầu nguyện rằng: “Người
ta cậy vào chiến xa pháo mã, còn dân chúng tôi chỉ trông chờ vào danh Chúa mà
thôi” (Tv 20/19,8). Như thế, người lấy thuế của người đồng chủng mà nộp cho
ngoại bang, là một cách trông cậy vào thế lực của kẻ ngoại hơn là trông cậy vào
Thiên Chúa. Nói cách khác: đặt uy danh Chúa dưới quyền lực của đế quốc Roma !
Nhưng ai biết ăn năn sám hối tội
mình, thì đều đáng được Đức Giê-su kêu gọi để nên chứng nhân cho Ngài, một khi
họ cảm nghiệm được “ở đâu tội lỗi nhiều, ở đó ân sủng Chúa ban càng chan chứa” (Rm
5,20).
Trong lịch sử cứu độ, người nào
biết khiêm tốn thú nhận tội lỗi mình trước mặt Chúa, thì người ấy lại được Chúa
làm việc lớn. Cụ thể như :
§
Ông Phê-rô được làm
Giáo hoàng.
Trong số 12 môn đệ Đức Giê-su
chọn, chỉ ông Phê-rô thú nhận với Thầy: “Xin
Thầy xa con, vì con là kẻ có tội” (Lc 5,8), nên ông đã được Chúa đặt làm
Giáo hoàng tiên khởi (x Mt 16,18), bởi đó trước khi Ngài chính thức trao quyền
lãnh đạo Hội Thánh cho ông, Ngài đã khéo léo, tế nhị nhắc đến ba lần ông đã
chối Thầy, bằng cách ba lần Ngài hỏi: “Con
có yêu Thầy không ?” (x Ga 21,15t).
§
Ông Phao-lô được làm
Tông Đồ muôn dân :
Ông Phao-lô tự hào: “Tôi là tù nhân trong Chúa” (Ep 4,1: Bài
đọc). Chúa đặt ông làm Tông Đồ muôn dân, còn 12 Tông Đồ kia chỉ lo cho dân Israel
(x Gl 2,9), nên ông khoe với giáo đoàn Corintho: “Thiết tưởng nào tôi thua gì những Tông Đồ thượng đẳng” (2Cr 11,5).
Ông được Chúa ban cho thành công hơn các Tông Đồ Đức Giê-su đã chọn trước Phục
Sinh,chỉ vì ông đã thành thật nhận ra tội: đi bắt các tín hữu ở Đama là bắt
Chúa Giê-su, và ông hạ mình đi học giáo lý nơi các môn đệ Đức Giê-su bị mang
tiếng là “những kẻ vô học thức” (x Cv
9 ; 4,13). Ông còn khiêm tốn thú nhận tội mình với các giáo đoàn:
-
Chẳng
có gì lành cư ngụ trong tôi, sự lành tôi muốn, tôi không làm, còn sự dữ, tôi
không muốn,tôi lại cứ làm (Rm 7,18-19).
-
Để
mạc khải cao siêu khỏi làm tôi quá tự tôn, thì tôi đã được một cái dằm đâm vào
thân xác, một thần sứ satan, để nó vả mặt tôi. Về điều ấy, đã ba lần, tôi nài
xin Chúa cho nó rời khỏi tôi. Nhưng Ngài đã phán bảo tôi: Ơn Ta đủ cho ngươi.
Vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2Cr 12,7-9).
Vậy trong loài người không ai được
có mặc cảm mình là kẻ tội lỗi bất xứng, không đáng được Chúa kêu gọi làm Tông
Đồ cho Ngài. Bởi vì cả đến tên trộm lành, suốt cuộc đời hắn chỉ làm khổ người
ta. Khi bị đóng đinh trên thập giá hắn biết sám hối tội, xin Chúa thương xót,
và xin được theo Ngài, hắn đã trở nên người mẫu động viên tất cả những kẻ tội
lỗi biết sám hối tội mình mà đến với Chúa Giê-su, để được ơn hơn lòng mong ước
(x Lc 23,43 ; Ep 3,20).
II. NĂNG
HIỆP DÂNG THÁNH LỄ.
Hình ảnh bữa tiệc Đức Giê-su ngồi
chung với những người tội lỗi tại nhà ông Mát-thêu (x Mt 9,10: Tin Mừng), trở
thành dấu chỉ bữa tiệc Thánh Thể Chúa mời gọi mọi người tham dự.
Ta biết ai được dự tiệc với Chúa
Giê-su là dấu chỉ người đó được ơn giải phóng, được giao hòa với Thiên Chúa,
được cứu độ. Chân lý này đã được diễn tả qua hình ảnh ông Gioakim, vua Do-thái
thất trận đã bị tù ở bên Babylon.
Ngày vua Babylon đăng quang, khi vua đã toàn thắng các nước chư hầu, vua đã
phóng thích cho Gioakim khỏi cảnh tù đày, cho mặc áo vua và ngồi nơi ghế cao
nhất trong bữa tiệc của vua tổ chức (x 2 V 25,27-29).
Thực vậy, mạc khải cho chúng ta
biết ơn cứu độ được Chúa ban trọn vẹn cho con người luôn luôn được diễn tả
trong bữa tiệc:
- Ông
Mat-thêu dọn tiệc để mời những người tội lỗi đến đồng bàn với Đức Giê-su và
các môn đệ (x Mt 9,10: Tin Mừng).
- Những
cô trinh nữ khôn ngoan được vào dự tiệc cưới với chàng rể (x Mt 25,1-13).
- Người
đầy tớ trung tín làm trọn những nhiệm vụ chủ trao phó, khi chủ về, ông đặt đầy
tớ vào bàn tiệc để hầu hạ (x Lc 12,35-37).
- Đức
Giê-su diễn tả những người được Ngài cứu độ là những khách được mời đến dự tiệc
của vua, ai đến tham dự thì được sống, kẻ khước từ bị chu diệt (x Lc 14,15t).
- Đứa
con hoang đường trở về cũng như người con cả muốn được hưởng hạnh phúc bên cha
thì phải dự tiệc của cha đã dọn (x Lc 15,11t).
- Ngày
cánh chung, khi Chúa cho mọi người từ cõi chết sống lại cả hồn lẫn xác, thì tất
cả những người công chính: người biết thương giúp đồng loại, quy tụ họ về với
Chúa, trở thành những “kẻ bé nhỏ”, để tất cả được vào dự tiệc hoan lạc trong
Nước Thiên Chúa (x Mt 25,31-46).
III. CHỌN
VIỆC TỐT NHẤT.
Một việc được gọi
là tốt phải hội đủ ba yếu tố :
o Bản chất việc đó tốt.
o Thuộc bổn phận.
o Hoàn cảnh bắt buộc phải làm trước.
Nhưng việc tốt
cũng có ba cấp độ :
1- Việc tốt thôi. Cụ thể như ông Mát-thêu, nếu ông yêu mọi người, sống công bằng, thì
ông chỉ nên thu thuế đúng mức mà chính quyền đã ấn định, có thế ông mới trở nên
một công chức lương thiện, góp phần điều hành tốt sinh hoạt xã hội. Việc này
đơn thuần là tốt, vì nó nhằm mục đích phục vụ một số người đồng thời, trong một
xã hội nhất định.
2- Việc tốt hơn. Hãy bắt chước ông Mát-thêu đã biết dùng tiền của để quy tụ những kẻ
tội lỗi đến đồng bàn với Đức Giê-su. Như thế là tốt hơn vì ông đã biết sử dụng
thực tại trần thế để xung vào vào việc tập họp mọi thụ tạo, nhất là người tội
lỗi được đồng bàn với Đức Ki-tô, chung lời tôn vinh Chúa Cha (x 1Cr 3, 22-23).
Đó là ta đã đóng góp vào chương trình
cứu độ của Đức Ki-tô, trong một thời nhất định.
3- Việc tốt nhất. Ông Mát-thêu dám tin tưởng vào lời mời gọi của Đức Giê-su: “Hãy theo Ta”, nên ông đã mau mắn bỏ ngay
kế sinh nhai béo bở, ông đi theo Đức Giê-su để đi thu góp Lời Chúa, một kho
tàng cứu độ vô giá, để lại cho muôn thế hệ. Cụ thể ta thấy vai trò ưu thắng của
Tin Mừng Mát-thêu trong Phụng vụ Hội Thánh hơn 20 thế kỷ nay. Đấy là ông
Mát-thêu mang tiếng là kẻ tội tày trời, đang mải miết bận rộn việc trần thế, mà
Đức Giê-su không xa tránh ông, trái lại
Ngài ân cần đến với ông như một y sĩ tận tình chăm sóc bệnh nhân, và như ông
được tình yêu Đức Giê-su thôi thúc (x 2Cr 5,14) phải đi làm việc tốt nhất Ngài
trao cho là loan Tin Mừng cứu độ. Căn cứ vào việc tốt nhất này, mà Công Đồng
Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 có lý để nhắc nhở cho mọi Ki-tô hữu: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao
quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới, cả lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế
!”
Như thế việc Tông Đồ không dành
riêng cho hàng giáo sĩ, mà Chúa còn muốn mọi Ki-tô hữu cộng tác khi ý thức “sống xứng đáng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa
đã ban cho: Phải ăn ở khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, lấy tình bác ái mà chịu
đựng lẫn nhau. Thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn
ở thuận hòa gắn bó với nhau. Vì chỉ có một Thân Thể, một Thần Khí, một niềm tin,
một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha của mọi người. Mỗi người đã nhận được ân
sủng tùy theo mức độ Đức Ki-tô ban: người này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn
sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy
dỗ. Nhờ đó dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng Thân
Mình Đức Ki-tô, đạt tới sự xứng hợp trong Đức Tin và trong sự nhận biết Con
Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức
Ki-tô” (Ep 4,1-7.11-13: Bài đọc).
Mọi người Ki-tô hữu có thực hành
những điều trên đây, thì mới làm cho mọi người hân hoan hô lên: “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu”
(Tv 19/18,5a: Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Tôi là tù nhân trong Chúa để
sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban (Ep 4,1)