BÀI GIẢNG
TINH THẦN
SỐNG LUẬT TRONG CHÚA GIÊSU
Ông Mô-sê đã nói trước mặt toàn
dân về giá trị Lề Luật Chúa ban để ông trao lại cho dân tuân giữ, ai giữ Luật
này, thì chiếm hữu được gia sản trong miền đất chảy sữa và mật (x Xh 3,8), và trở
nên những người khôn ngoan, thông minh,
đến nỗi dân ngoại tấm tắc khen ngợi: “Chỉ có dân tộc này mới thực là dân khôn
ngoan và thông minh. Bởi vì trên hoàn vũ này không có thần minh nào ở với ai,
trừ có dân Israel được Thiên Chúa ở gần, để mỗi khi chúng ta kêu cầu Người được
Người nhận lời. Chính vì vậy mà ông Mô-sê kêu gọi toàn dân phải ý tứ cẩn thận
giữ mình đừng quên những điều Luật dạy, và phải dạy cho con cháu biết” (Dnl
4,1.5-9: Bài đọc).
Nhưng Đức Giê-su còn đòi hỏi những
ai theo Ngài phải có tinh thần yêu mến, tin tưởng giữ Lề Luật Ngài đã làm hoàn
hảo, hơn tinh thần của dân Do Thái đối với Luật Mô-sê, vì:
- Đức
Giê-su là Chủ Lề Luật.
- Phải
giữ Luật Đức Giêsu vì yêu, vì xác tín, Luật của Ngài ban là Luật trọn hảo.
I. ĐỨC GIÊ-SU LÀ CHỦ LỀ
LUẬT.
Chỉ có Ngài mới có quyền thay đổi
và làm cho hoàn hảo. Ngài nói: “Con Người
là Chúa ngày Hưu lễ” (Mt 12,8). Thực vậy, “chỉ có một Đấng lập luật và là Thẩm Phán, Đấng có quyền cứu thoát và
tiêu diệt” (Gc 4,12a).
Bởi vậy Đức Giê-su đến trần gian
minh chứng quyền làm Chủ Lề Luật là làm hoàn hảo Luật Mô-sê, chứ không phải đến
bãi bỏ (x Mt 5,17).
1/ Luật Mô-sê dạy: không được
giết người, ai vi phạm thì bị can án ; còn Đức Giê-su dạy: phải loại
trừ nguyên nhân giết người, như không được tức giận anh em, không mắng ai
là đồ ngốc, đồ khùng (x Mt 5,21-22).
2/ Luật Mô-sê cấm ngoại tình ; nhưng Đức Giê-su cấm nguyên nhân gây ra ngoại tình, như không được nhìn
người nữ để thỏa lòng dục, nếu mắt nên cớ vấp phạm thì móc đi, tay nên làm dịp
vấp ngã thì chặt đi. Nghĩa là phải quyết liệt loại trừ nguyên nhân gây ra ngoại
tình (x Mt 5,27-30)
3/ Luật Mô-sê dễ dàng cho phép ly hôn, đó chỉ vì lòng dân lỳ lợm mà
ông Mô-sê miễn cưỡng cho phép (x Mt 19,8). Nhưng Đức Giê-su cấm hẳn ly dị hoặc đa thê, Ngài nhắc lại thuở ban đầu
Thiên Chúa chỉ thiết lập đơn hôn, một vợ một chồng và bất khả phân ly (x Mt
5,31-32).
4/ Luật Mô-sê cấm bội thề, nhưng phải giữ trọn lời thề với Chúa ; còn Đức Giê-su dạy: thề thốt không có nghĩa là
trung tín, trung thực, mà phải sống “có” thì nói “có”, “không” thì nói “không”,
phát xuất tự đáy lòng trung thực của mình, nói thêm nói bớt là do ma quỷ (x Mt
5,33-37).
5/ Luật Mô-sê cho phép báo thù dựa trên Luật công bằng: mắt thế mắt,
răng thay răng ; nhưng Đức Giê-su đòi
người ta sống hoàn hảo như Cha trên trời là vượt trên công bằng: lấy lành
báo ác, lấy ơn đền oán (x Mt 5,38-42).
6/ Luật Mô-sê dạy chỉ yêu thân nhân, tức là yêu người yêu mình, hoặc
yêu đồng chủng hơn người ngoại giáo ; còn Đức
Giê-su đòi người ta yêu một cách quảng đại, bao dung, không phân biệt bạn thù. Có
thế mới trở nêngiống Thiên Chúa: “Ngài làm cho mặt trời mọc lên trên người
công chính cũng như kẻ dữ,và làm mưa trên người ngay cũng như kẻ ác. Nếu chỉ yêu mến người yêu mình, thì chẳng
hơn gì dân ngoại, chẳng hơn gì những kẻ tội lỗi. Bởi vì ai thuộc về Đức Giê-su,
phải sống hoàn hảo như Cha trên trời” (Mt 5,43-48).
7/ Về Luật Phụng Vụ ngày thứ bảy: Người Do Thái bất mãn với Đức
Giê-su, vì Ngài đã làm việc trong ngày thứ bảy, là vi phạm Luật Thánh. Đến nỗi
“sau sáu năm cày cấy thì năm thứ bảy là
năm sabbat, đất đai còn cho nghỉ ngơi không ai canh tác” (x Lv 25,2-5). Thế
mà đã ba lần (trong tổng số 33 phép lạ của bốn Tin Mừng) Đức Giê-su cố ý chữa lành
nhiều bệnh nhân đến với Ngài:
-
Ngài
chữa lành cho người có tay khô bại (x Mt 12,9).
-
Ngài
chữa lành cho bà bị còng lưng được đứng thẳng (x Lc 13,10).
-
Ngài
chữa lành cho người mắc bệnh phù thũng (x Lc 14,1).
Đức Giê-su có ý làm việc vào ngày
Hưu lễ, vì Luật này thuộc Luật Phụng Vụ, mà giá trị Luật Phụng Vụ Do Thái chỉ
được hoàn hảo nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su mà thôi. Vì thế
Hiến Chế Mạc Khải số 16, Hội Thánh dạy: “Giá trị Cựu Ước được thể hiện trong Tân Ước
; giá trị Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu Ước”. Do đó giá trị hy tế dâng
chiên cừu phải được thể hiện trong Tân Ước là dâng “Con Chiên Thiên Chúa” (Ga
1,29), mới thực là của lễ Chúa Cha ưng nhận.
8/ Chúa Giê-su còn trao cho Hội Thánh quyền sửa đổi Luật Mô-sê (x Mt
16,18-19), nên Ngài nói: “Ai nghe lời môn
đệ tôi là nghe tôi” (Lc 10,16). Đan cử:
a- Luật Mô-sê đòi buộc những ai
muốn thuộc dòng giống Do Thái phải chịu phép cắt bì, thì chính Chúa Giê-su đã hướng dẫn ông Phê-rô
bỏ Luật cắt bì. Vì thế ông Phê-rô nói: “Thánh
Thần và chúng tôi quyết định từ nay không đặt trên dân ngoại ách Lề Luật của
cha ông chúng ta nữa, chỉ cần họ tin lời rao giảng của chúng ta là ban Thánh
Tẩy cho họ” (x Cv 9,10t ; 15,28).
b- Hội Thánh cũng đã cho phép dùng
ảnh tượng để tôn kính, dù trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa không cho phép
người ta tạc ảnh tượng,vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao hay dưới đất thấp,
hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất để mà thờ (x Xh 20,4).
Tuy nhiên đã có lần Chúa lại bảo
ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên, để ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đó,
thì không bị chết ! (x Ds 21, 4t)
Và ngôn sứ Isaia vào Đền Thờ cũng
nhìn thấy hình hai Thiên thần được tạc để chầu hầu trước Hòm Bia Thiên Chúa (x
Is 6,2).
Lý do Chúa cấm đúc, tạc, vẽ tượng
là để phân biệt Do Thái giáo với các tôn giáo khác: Vì các tôn giáo khác họ thờ
ngẫu tượng, các thần họ tôn kính theo lối suy tưởng của loài người đặt ra: Đó
là phóng thể của trí tuệ con người về một vị thần họ tôn kính.
Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình.
Do đó Đền Thờ của người Do Thái chỉ có hai bia đá ghi Lời Chúa được đặt nơi
Cung Thánh, và không có hình tượng nào khác, trong khi đó đền thờ ngoại giáo la
liệt đủ mọi loại hình tượng…
Còn trong thời Tân Ước, người ta tôn thờ Thiên Chúa không còn chỉ là tôn thờ
Đấng vô hình như thời Cựu Ước, vì Thiên Chúa đã làm người, trở thành Thiên Chúa
hữu hình. Thánh Gioan nói: “Điều vẫn có
ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt,
điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống”
(1Ga 1,1). Ta lại biết thời Cựu Ước, dân Do Thái trên đườngvề đất Hứa bị rắn cắn, Chúa bảo ông Mô-sê đúc con
rắn đồng treo lên cột cờ, ai bị rắn cắn, cứ nhìn lên con rắn đồng là được thoát
chết, không phải tự con rắn đồng có phép cứu người ta, nhưng là do lòng tin vào Thiên Chúa mà nhìn
lên con rắn đồng như Ngài đã dạy ; cũng thế, chúng ta không phải nhìn lên ảnh
tượng bằng gỗ đá mà tin rằng tự ảnh tượng đó có phép mầu cứu chúng ta, nhưng đó
là dấu chỉ giúp chúng ta tin vào Chúa Giêsu đã chết và sống lại để ban sự sống
cho chúng ta, thì cần thiết hơn dân Do Thái nhìn lên con rắn đồng để được thoát
chết.
Ta biết rằng có ba cách loan báo
chân lý:
- Bằng lời nói.
- Bằng chữ viết.
- Bằng hình ảnh.
Thì nghệ nhân khi tạc ảnh tượng
phải làm toát ra sự thánh thiện, nhất là qua ảnh tượng đó diễn tả càng rõ, càng
nhiều điểm giáo lý, thì càng đạt, mà lời nói cũng chữ viết không diễn tả được.
Việc sắp đặt ảnh tượng để tôn kính
phải giữ đúng Quy Luật Hội Thánh chỉ dạy: “Không
được đặt hai hình của một vị trong một nơi tôn kính” (x Hiến Chế Phụng Vụ
số 125 và Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Roma số 278).
Cụ thể: nếu đã đặt tượng Mẹ Hằng
Cứu Giúp, thì không đặt thêm tượng Mẹ Fatima, tượng Mẹ Lộ Đức …
II.
PHẢI GIỮ LUẬT ĐỨC GIÊSU VÌ YÊU, VÌ XÁC TÍN LUẬT CỦA NGÀI BAN LÀ LUẬT TRỌN HẢO.
Vì Đức Giê-su đến làm hoàn hảo
Luật Mô-sê như trên, nên ta phải biết quý trọng Luật này hơn người Do Thái yêu
mến và tuân giữ Luật Mô-sê. Đức Giê-su nói: “Dù một chấm một phết trong Lề Luật Mô-sê Ta đã làm hoàn hảo, thì không được bãi bỏ. Ai bãi bỏ, dù là
chỉ một trong những điều răn nhỏ ấy và dạy người khác làm như thế, thì bị gọi
là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời,còn ai tuân hành và dạy người khác làm như thế,
thì được gọi là người cao cả trong Nước Trời” (Mt 5,18-19: Tin Mừng).
Đan cử: Luật Hội Thánh không buộc
giáo dân dự Lễ ngày thường, cũng không buộc ai sau khi đã lãnh Bí tích Khai tâm
hay Hôn Phối tiếp tục đi học giáo lý. Nhưng nếu tất cả mọi người Công Giáo dự
Lễ hằng ngày, chuyên cần học giáo lý, để biểu lộ lòng yêu mến và triệt để giữ
Lề Luật Chúa, không phân biệt Luật trọng Luật hèn ; không phân biệt tội trọng
tội nhẹ, bởi tin rằng “Lời Chúa là Thần
Khí và là sự sống. Chúa có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,63c.68c:
Tung Hô Tin Mừng), thì quả thực Hội Thánh Chúa phát triển rất nhanh, và người Công
Giáo như thế đúng là ánh sáng, là muối cho đời (x Mt 5,13-16). Vì lòng họ hằng
hướng về khát vọng “nên hoàn hảo như Cha
trên trời” (Mt 5,48). Chắc chắn họ sẽ được Chúa chăm sóc, giữ gìn, như lời
Kinh Thánh nói: “Then cửa nhà ngươi, Chúa làm cho thêm chắc, con cái trong thành, Người
giáng phúc thi ân” (Tv 148/147,13: Đáp ca).
Tin đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới sáng ngày
16-08-2000:
“Văn phòng Nghiên
Cứu Hiện Tượng của Hoa Kỳ về Đời Sống Hôn Nhân, kết quả được Hội Đồng Tòa Thánh
Đặc Trách về Gia Đình trích dẫn trong tài liệu có tựa đề “Bí tích Hôn Phối”
xuất bản năm 1989 như sau :
-
Trong 100 gia đình không có đạo, thì 50 % gia đình ly dị.
-
Trong 100 gia đình Công Giáo, chỉ đi dự Lễ Chúa nhật, ly dị xuống
thấp chỉ còn 10%.
-
Trong 100 gia đình Công Giáo, đi dự Lễ hằng ngày, và có giờ cầu
nguyện riêng, chỉ còn 1% ly dị.
Vậy gia đình hoặc bất cứ cộng đoàn
nào muốn có bình an hạnh phúc, phải năng dự Lễ và có giờ cầu nguyện chung với
nhau.
THUỘC LÒNG
Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy,
và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn
ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời. (Mt 5,19)
http://phaolomoi.net
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH