BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC :
Dt 11, 1-7
1
Thưa anh em, Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho
những điều ta không thấy.2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được
Thiên Chúa chứng giám.
3 Nhờ
đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa;
vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có.4 Nhờ đức
tin, ông A-ben đã dâng lên Thiên Chúa một hy lễ cao quý hơn hy lễ của ông
Ca-in: nhờ tin như vậy, ông A-ben đã được chứng nhận là người công chính, bởi
vì Thiên Chúa đã chấp nhận những lễ phẩm ông dâng. Và cũng nhờ tin như thế, mà
tuy đã chết rồi, ông vẫn còn lên tiếng.
5 Nhờ
Đức Tin, ông Kha-nốc được đem đi nơi khác để khỏi chết, và người ta không tìm
thấy ông nữa, bởi vì Thiên Chúa đã đem ông đi. Quả thật, Kinh Thánh chứng nhận
rằng: trước khi được đem đi, ông đã làm đẹp lòng Thiên Chúa.6 Mà
không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên
Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho
những ai tìm kiếm Người.
7 Nhờ
Đức Tin, ông Nô-ê được Thiên Chúa báo cho biết những gì người ta chưa thấy; vì
có lòng kính sợ Thiên Chúa, ông đã đóng một chiếc tàu để cứu gia đình ông. Tin
như thế là ông đã lên án thế gian, và được phần gia nghiệp là sự công chính nhờ
Đức Tin.
ĐÁP CA : Tv
144
Đ. Lạy
Chúa, con chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. (x c 1b)
2 Ngày
lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời. 3
CHÚA thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng. Người cao cả khôn dò khôn thấu.
4 Đời nọ
tới đời kia, thiên hạ đề cao sự nghiệp Chúa và truyền tụng những chiến công của
Ngài,
5 tuyên bố Ngài oai phong vinh hiển, kể lại rằng: Ngài thực hiện
những kỳ công,
10 Lạy
CHÚA, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc
tụng Ngài, 11 nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài
là Đấng quyền năng,
BÀI GIẢNG
A. PHẦN TÌM
HIỂU
Ý
NGHĨA BIẾN CỐ HIỂN DUNG ?
Hiển
Dung là minh chứng Đức Giêsu chiến thắng satan trong suốt cuộc đời của Ngài
chịu cám dỗ, khởi đi từ phép rửa ở sông Giođan cho tới núi Sọ.
Nhìn vào lược đồ trên cho chúng ta thấy : những gì
xảy ra ở (4) thì cũng diễn ra ở (1) và (2) ; đồng thời cũng sẽ xảy ra ở (3) .
Thực
vậy :
a-
Phép rửa với Hiển Dung :
Lời của Chúa Cha giới thiệu Đức Giêsu cho nhân loại :
“Đây là Con chí ái Ta”, chỉ xuất hiện
hai lần trong cuộc đời của Ngài : Khi Ngài chịu phép rửa ở sông Gio-đan (x Mc
1,11a) và lúc Ngài Hiển Dung ở núi cao (Mc
9,7a : Tin Mừng).
b- Cám dỗ với Hiển Dung và Tử Nạn:
Đức
Giêsu bị cám dỗ liên lỉ, điển hình :
*
Đầu cuộc đời công khai của Đức Giêsu, quỷ đến cám dỗ Ngài, nhưng nó luôn thất
bại, còn Đức Giêsu sống giữa dã thú và các thiên thần đến hầu hạ (x Mc 1,13).
* Tại
núi Hiển Dung, môn đệ cám dỗ Đức Giê-su : “May
quá có chúng con ở đây để chúng con dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê,
và một cho Ê-ly-a” (x Mc 9,5 : Tin Mừng)
*
Vào giờ Đức Giê-su chịu Tử Nạn, mọi người cám dỗ Ngài : “Mày định triệt hạ Đền Thờ và sẽ xây dựng lại trong ba ngày. Hãy cứu lấy mình đi là
xuống khỏi thập giá đi nào. Nó đã cứu những ai khác, chứ vô phương cứu lấy
mình. Hãy xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy mà tin” (x Mc 15,29-32).
c- Hiển Dung với Tử Nạn và Phục Sinh.
Ta thấy các chi tiết ở núi Hiển Dung đều xảy ra
vào giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su:
·
Ông Marco ghi
“sáu ngày sau” Đức Giêsu Hiển Dung (x Mc 9,2a) là báo trước Ngài bị giết vào
ngày thứ sáu, rồi ngày thứ I trong tuần, tức là ngày thứ tám, ngày Chúa nhật, Ngài
sống lại (x Mc 16,2).
·
Tại núi Hiển
Dung, cũng như núi Cây Dầu vào giờ Tử Nạn, Đức Giêsu bị bắt đều có ba ông Phêrô,
Gioan và Giacôbê ở với Đức Giêsu (x Mc 9,2= Mc 14,33).
·
Nơi núi Hiển
Dung và núi Sọ (vào lúc 3giờ Thứ Sáu Tuần Thánh) đều có mây bao phủ ngọn núi (x
Mc 9,7 = Mc 15,33).
·
Nơi núi Hiển
Dung có hai ông Môsê và Êlya hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su (x Mc 9,4 : Tin
Mừng) ; thì vào lúc Chúa Giêsu phục sinh cũng có hai thiên thần từ trời đến báo
cho các bà ra mộ : Chúa Giêsu không còn ở đây (x Ga 20,12) ; và chính lúc Chúa
Giêsu lên Trời, cũng có hai thiên thần xuất hiện nói với các môn đệ đang đứng
nhìn Thầy về Trời : các ông hãy trở về, Ngài sẽ đến cùng một thể thức như các
ông vừa thấy (x Cv 1,10).
B. GIÁO
HUẤN
HIỂN DUNG :
CHÚA MUỐN MỌI NGƯỜI MỖI NGÀY VƯƠN TỚI HOÀN HẢO
Biến cố Hiển Dung, chắc chắn Chúa Giê-su
muốn ta mỗi ngày được thăng tiến trong ba lãnh vực :
- Thân xác khỏe mạnh.
- Trí tuệ thông minh, tài ba.
- Tâm hồn đạo đức thánh thiện.
Thánh Tôma Tiến sĩ nói : “Mỗi vấn đề phải được giải quyết trong lãnh
vực của nó”.
1/ Muốn có
thân xác khỏe mạnh, ta phải ăn uống
điều độ và đủ chất dinh dưỡng ; thêm vào mỗi ngày ta phải tập thể thao thể dục.
2/ Muốn có
trí tuệ thông minh, tài ba, ta chăm chỉ học hành và cần cù
làm việc.
3/ Muốn có
tâm hồn đạo đức thánh thiện, ta phải
có tâm nghe Lời Chúa và đem ra thực hành .
Nhưng
a- Nghe Lời Chúa ở đâu ?
Phải khẳng định rằng ta chỉ được trực tiếp nghe
Lời Con yêu dấu của Chúa khi Hội Thánh
giảng dạy trong Phụng Vụ (x Dt 1,1-2). Chân lý này đã được mạc khải trong trình
thuật Đức Giêsu Hiển Dung, Chúa Cha đã giới thiệu Con của Người, và buộc loài
người phải nghe Lời Con của Người : “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe
Lời Ngài” (Mc 9,7 : Tung Hô Tin Mừng). Thế mà sau đó, Đức Giêsu lại ra lệnh cho các môn đệ
: “Chúng con phải im lặng (không được
nói cho ai biết lệnh Chúa Cha nghe Lời Thầy)
cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” (Mc 9,9). Như chúng ta biết từ
lúc Đức Giêsu bị xử án, Ngài đã chấm dứt giảng dạy, ai muốn nghe giáo lý của
Đức Giêsu, Ngài bảo : “Cứ vào Nhà Thờ hỏi người nghe tôi giảng dạy,
vì hằng ngày tôi giảng cách công khai ở đó” (x Ga 18, 19-21), thì ta phải hiểu đó chính là lúc Hội Thánh cử
hành Phụng Vụ, đây là quyền giáo huấn Chúa đã trao riêng cho Hội Thánh, và sau
Phục Sinh, các môn đệ chính thức nhận lệnh Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin
Mừng! (x Mc 16,15t). Vậy lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói cho ai những gì họ đã được mắt
thấy tai nghe ở trên núi Hiển Dung, cho đến khi Đức Giêsu từ cõi chết sống lại,
TRỞ THÀNH LỜI GIẢI THÍCH lệnh : “Chúa Cha
truyền phải nghe Lời Con của Người”, chính là CHÚA CHA BUỘC MỌI NGƯỜI PHẢI
NGHE LỜI HỘI THÁNH giảng dạy dựa vào các Bài đọc trong Thánh Lễ, để từ đó rút
ra những mầu nhiệm Đức Tin và các Quy Tắc cho đời sống Kitô hữu trong suốt chu
kỳ năm Phụng Vụ (x HCPV số 24 và 52).
Giảng
Lời Chúa còn phải làm cho người nghe nhận biết Kinh Thánh có bốn ý nghĩa:
- Nghĩa văn
tự dạy về biến cố.
- Nghĩa ẩn dụ dạy điều phải tin.
- Nghĩa luân
lý dạy điều phải làm.
- Nghĩa dẫn
đường dạy điều phải vươn tới.
Ví dụ : Khi cắt nghĩa về trình thuật Hóa Bánh :
“Nghĩa văn tự
dạy về biến cố” : phải giảng cho người nghe nhận biết Đức Giêsu là Đấng
toàn năng và rất mực yêu thương, Ngài chỉ cần dùng 5 chiếc bánh và 2 con cái
nuôi một đoàn lũ dân đông vô kể, ai cũng ăn no và còn dư 12 thúng.
“Nghĩa ẩn dụ
dạy điều phải tin” : trình thuật Hóa Bánh là dấu chỉ về Bí tích Thánh
Thể buộc mọi người phải tin.
“Nghĩa luân lý
dạy điều phải làm” : Chúa muốn mọi người phải cộng tác với Ngài để chăm sóc
đồng loại, như các Tông Đồ đang lúc thiếu ăn mà phải nhường bánh và cá cho dân,
như thế là đặt nhu cầu đồng loại trước nhu cầu của bản thân.
“Nghĩa dẫn
đường dạy điều phải vươn tới” : mọi người Công Giáo phải sống như các Tông
Đồ để cộng tác với Chúa Giêsu làm hoàn hảo Hy Tế Ngài thiết lập,có thế mới vươn
tới Thiên Đàng.
“Sự hòa hợp sâu xa của bốn nghĩa này đem lại cho việc
đọc Thánh Kinh cách sống động trong Hội Thánh tất cả sự phong phú của nó. Các
nhà chú giải có nhiệm vụ dựa theo những quy tắc đó mà cố gắng hiểu thấu mà
trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu sắc hơn” (x GL Roma số 115-119). Cũng như
bài giáo lý phải kín múc từ năm nguồn : Kinh Thánh, Thánh Truyền, Phụng Vụ,
Công Đồng và Giáo Luật (x Sắc Lệnh về Nhiệm Vu Mục Vụ của các Giám Mục sống14
mà Công Đồng Vat.II đã quy định).
Ta lại biết lý do các Tông Đồ muốn dựng ba lều ở trên
núi Hiển Dung cho Thầy, cho Môsê và Êlya, là vì các ông nhận ra rằng nơi đây là
Nhà Tạm của Thiên Chúa. Trong thời ông Mô-sê dẫn dân bỏ Ai Cập về đất Hứa,
trước khi ông có ý kiến với dân, thì ông vào Lều Hội Ngộ, nơi đặt hai Bia Đá để
thỉnh ý Chúa, lúc ấy có mây bao phủ Lều (x Xh 33, 7t). Đây là dấu chỉ sự hiện
diện của Thiên Chúa, nhiều thế kỷ sau,
khi Đền Thờ được khánh thành, mây cũng bao phủ khắp Đền Thờ (x 1V 8,10).
Nhưng
Đức Giêsu không cho các ông dựng Lều trên núi Hiển Dung, Ngài buộc các ông phải
xuống núi để đi loan báo Tin Mừng, quy tụ muôn dân vào Hội Thánh. Đấy mới thực
là Lều của Thiên Chúa, Ngài luôn hiện diện với dân khi Hội Thánh cử hành Phụng
Vụ, đặc biệt là Thánh Lễ. Chỉ trong Thánh Lễ, Chúa Cha mới buộc mọi người “hãy
nghe Lời Con Yêu Dấu của Ta”. Vì Đức Giêsu đã nói : “Ai nghe lời môn đệ Ta là nghe Ta, ai khước
từ môn đệ Ta là khước từ Ta và khước từ Đấng đã sai Ta” (Lc 10,16).
b- Nghe Lời
Chúa phải có tâm tư nào ?
Lúc
Đức Giêsu Hiển Dung, Chúa Cha mới buộc loài người nghe Lời Con Chí Ái của Ngài,
sau khi Con của Ngài đã nghe Lời Chúa Cha phục vụ loài người đến mất mạng ! Do
đó ta nghe Lời Chúa không chỉ bằng lỗ tai, mà phải nghe bằng cả con tim thể
hiện bằng hành động như Đức Giêsu. Có thế, trong ngày cánh chung, ta mới được
giống Đức Giêsu, Ngài thế nào ta sẽ được như vậy (x 1Ga 3,2).
c- Lời Chúa
đem lại hiệu quả gì ?
Vinh
quang của Chúa Giêsu Phục Sinh đã bày tỏ cho ba chứng nhân là các ông Phêrô,
Giacôbê và Gioan, thì sau khi Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, ông Phêrô mới
tiết lộ : “Tôi đã được thấy tận mắt vẻ
huy hoàng lẫm liệt của Người, Người được Chúa Cha ban vinh quang danh dự, như
Lời Chúa Cha xác nhận : “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ” (2 Pr
1, 16-17), và “Người được Chúa Cha trao
cho quyền thống trị vĩnh cửu, muôn người thuộc mọi chi tộc, quốc gia và ngôn
ngữ đều phải phụng sự Ngài” (Dn 7, 9-10.13-14), vì “Người là Vua hiển trị, Đấng cao cả trên khắp địa cầu” (Tv
97/96,1a.9a). Nhưng Vua Giêsu chỉ thi hành quyền Mục Tử đến liều mạng vì chăm
sóc đoàn chiên của Ngài là những kẻ biết nghe Lời Ngài (x Ga 10,27-30), nên
thánh Phêrô nói tiếp : “Chúng tôi lại
càng thêm tin tưởng vào Lời Kinh Thánh. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì Lời
ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao
mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em” (2 Pr 1, 19). Vì thế mỗi khi ta dự
tiệc Thánh Thể, thì Hội Thánh dùng quyền năng Chúa Thánh Thần ghi tạc Lời Chúa
vào thân xác và linh hồn ta (x 2Cr 3,3). Nhờ đó, “ta không còn rập theo thói đời này, trái lại phải canh tân lương tri mà biến hình đổi dạng”(Rm 12,2a), hầu đạt
vinh quang như Chúa Giêsu đã bày tỏ trên Núi Thánh. Điều ta phải canh tân nhất là miệng lưỡi mình.
Thánh
Giacôbê dạy : “Ai không vấp ngã trong lời
nói, người ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế bản thân. Nếu ta tra hàm
thiếc vào miệng ngựa để bắt chúng vâng lời, thì ta điều khiển được toàn thân
chúng.Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn, và có bị cuồng phong
đẩy mạnh thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất nhỏ để điều khiển
theo ý của người lái. Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé
của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa
nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao! Cái lưỡi
cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa
các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy
bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy.Thật thế, mọi loài thú
vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự và
đã chế ngự được.Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không
bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người. Ta dùng lưỡi mà chúc tụng
Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được
làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng
và lời nguyền rủa. Thưa anh em, như vậy thì không được” (Gc 3,2-10 : Bài
đọc năm chẵn).
Vậy ta
hãy cầu xin Chúa sửa trị miệng lưỡi ta, để “ca
tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời” (Tv 145/144,1b : ĐC năm lẻ). Vâng “lạy Chúa, Ngài bảo vệ chúng con” (Tv
12/11,8a : ĐC năm chẵn). Vì mỗi khi tham dự Phụng Vụ của Hội Thánh, ta trực
tiếp được nghe Lời Con Chí Ái của Chúa Cha, và rước Lễ là được đồng hóa với
Chúa Giêsu (x Gl 2,20). Lúc ấy ta như một thanh sắt đã được nung đỏ trong lửa,
vì Thiên Chúa là lửa thiêu (x Dt 12,29). Thanh sắt đã được nung đỏ, thì không
ai nhìn nó như cây sắt nhưng thấy thanh lửa. Tác giả sách Daniel diễn tả : “Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của
ngai cũng rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra”
(Dn 7, 9c-10a). Bởi đó ta cũng được thông dự vào vinh quang trong Con Thiên
Chúa đã hé mở trên núi Hiển Dung, và được tồn tại muôn đời, như hai ông Môsê và
Êlya, cùng xuất hiện vinh quang trên núi với Đức Giêsu, chỉ vì hai ông có liên
hệ mật thiết với Lời Chúa. Truyền thống vẫn tin ông Môsê là tác giả Luật ; còn
ông Êlya là tác giả giáo huấn của các ngôn sứ. Toàn bộ Kinh Thánh gồm hai phần
: Luật và Giáo Huấn. Đúng như Lời Đức Giêsu đã nói : “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mt
24,35). Nghĩa là ai liên hệ mật thiết với Lời Chúa, thì cuộc đời người ấy bất
tận như ông Môsê, dù xác ông đã được an táng trong xứ Mô-áp, nhưng không ai tìm
ra mộ ông (x Dnl 34,6) ; còn ông Êlya không phải chết, vì được Chúa cất giấu
đi, Ngài sẽ cho ông xuất hiện trong ngày Quang Lâm (x Hc 48,1 ; Ml 3,23). Đó là
Đức Tin của các tổ phụ, như ông Abel, ông Khanốc, ông Noe. Đức Tin này phải
thấm nhập vào đời ta, bởi vì “tin là cách
chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người
ta không thấy” (Dt 11,1-7 : Bài đọc năm lẻ - Bản dịch NTT).
THUỘC LÒNG
Đừng
rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương tri, mà biến hình đổi dạng, làm
sao anh em thẩm định được ý Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành,thú vị, trọn hảo
(Rm 12,2).
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4