BÀI GIẢNG
HIẾN CHƯƠNG
NƯỚC TRỜI
Có một ngộ nhận cần được giải tỏa,
đúng ra không gọi nghèo khó, đói khát, khóc lóc là “phúc thật” được, vì bản
chất của nó là tiêu cực, là sự dữ! Giáo lý của Chúa phải là sống tích cực, bản
chất việc sống đạo phải là thiện hảo, vì “kẻ
tìm Chúa chẳng thiếu thốn chi của cải” (Tv 34/33,11), nên “từ nhỏ dại đến nay tôi già cả, chưa thấy
người công chính bị Chúa bỏ rơi và giống dòng phải ăn mày thiên hạ !” (Tv
37/36,25).
Triết gia F. Nietzsche đã mù quáng
chối bỏ giá trị “Hiến Chương Nước Trời”, nên khi bàn về “siêu nhân” ông đã nổi
giận vì các mối “Phúc thật” của Kitô giáo, ông cho đó là tạo ra con người bạc
nhược, tiêu cực, phản tiến bộ !
Do đó muốn lãnh hội được giá trị
của các mối “Phúc Thật”, con người hãy tìm kiếm Chúa, phải khiêm nhường đặt
mình là kẻ thấp hèn đối với giáo huấn của Chúa, phải khao khát chân lý và mong
được ẩn náu nơi Ngài, hầu được Chúa huấn luyện không ăn gian nói dối, không làm
chuyện bất công ! (x Xp 2,3 ; 3,12-13 : Bài đọc I). Vậy muốn lãnh hội được giáo
huấn của Chúa, người tín hữu phải xác tín :
1/ TÂM TƯ VÀ ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA KHÁC VỚI CON NGƯỜI.
Chúa
phán : “Tư tưởng của Ta không phải là tư
tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta.
Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các
ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is
55,8-9)
Ông Pascal (nhà toán học, vật lý,
văn sĩ, triết gia) nói : “Tâm khám phá ra
Thiên Chúa chứ không phải lý trí, tâm lãnh hội chân lý Đức Tin, chứ không do
suy luận đem lại !”
2/ THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG TOÀN NĂNG
BIẾN SỰ DỮ RA LÀNH CHO MỌI KẺ TIN YÊU NGÀI (x Rm 8,28).
3/ PHẢI ĐỌC TOÀN BỘ GIÁO HUẤN CỦA THIÊN
CHÚA, XUYÊN SUỐT TỪ CỰU ƯỚC ĐẾN TÂN ƯỚC, CHỨ KHÔNG CHỈ CHỌN NHỮNG CÂU TRONG THÁNH
KINH MÌNH ƯA THÍCH, ĐỂ RỒI CÂU NÀO NGHE CHÓI TAI THÌ LOẠI ĐI!
4/ CHỈ ĐIỀU NÀO ỨNG NGHIỆM NƠI ĐỜI
SỐNG ĐỨC GIÊSU HOẶC PHÙ HỢP VỚI GIÁO LÝ CỦA
NGÀI, VÀ ĐƯỢC HỘI THÁNH CÔNG BỐ MỚI THỰC LÀ Ý CHÚA.
5/ NHIỀU ĐIỂM GIÁO LÝ CHỈ HIỂU VÀ
THẤY ĐƯỢC GIÁ TRỊ TRONG THỜI CÁNH CHUNG (thế giới Phục Sinh).
6/ PHẢI HỌC NƠI THÁNH TÔMA
TIẾN SĨ TINH THẦN KHIÊM TỐN VÀ KHAO KHÁT CHÂN LÝ : “Một kiến thức bất toàn về mầu nhiệm cao siêu còn hơn sự ngu dốt hoàn
toàn”.
Dựa vào các nguyên tắc trên đây, ta mới
có thể đón nhận được giá trị các mối “Phúc Thật” trong “Hiến Chương Nước Trời”,
mà Đức Giê-su là ông Môsê mới, Ngài lên
núi ban Luật mới cho Hội Thánh Ngài (x Xh 34 = Mt 5). Nhưng Luật Đức Giêsu ban và
Luật ông Môsê nhận có những điểm khác
nhau :
-
Khác nhau về hình thức :
· Luật Chúa trao cho ông Môsê được ghi trên hai
tấm bia đá (x Xh 34, 1); Luật của Đức Giêsu được ghi tạc trên tấm linh hồn và
thân xác của những kẻ tin (x 2Cr 3,3).
· Luật Chúa trao cho ông Môsê gồm ba điều về
Chúa ghi bia thứ I, còn bảy điều về người ghi trên bia thứ II ; nhưng Hiến
Chương Nước Trời Đức Giêsu công bố chỉ có tám điều về con người.
-
Khác nhau về bản chất.
· Luật Chúa
ban qua ông Môsê còn giam ta trong tội, có giá trị chăng nữa chỉ như quản giáo
dẫn ta đến gặp Chúa Giêsu, Ngài mới là Đấng giải phóng ta thoát án phạt của
Luật (x Gl 3,22-24).
· Luật Chúa
ban qua ông Môsê, nhưng ơn nghĩa và sự thật thì nhờ Đức Giêsu Ki-tô mà có. Do
sự sung mãn của Ngài tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (x Ga
1,16-17).
Trong tám mối Phúc, mối Phúc tinh thần nghèo (1) và mối Phúc bị bách hại vì sống công chính (8), bản
chất cũng là nghèo. Như thế mối Phúc “Nghèo”, đã mở
đầu và kết thúc “Hiến Chương Nước Trời”, như hai cái ngoặc đóng khung sáu mối Phúc còn lại !
Vậy trước khi tìm hiểu ý nghĩa về mối Phúc “Nghèo” đóng khung, chúng ta hãy tìm
hiểu sáu mối Phúc kia trước :
*
Mối Phúc thứ hai : “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được
Đất Hứa làm gia nghiệp.” (Mt 5,4).
Cụ
thể những mẫu người sống hiền đã được đất của Chúa :
* Ông Abraham không muốn tranh chấp đồng cỏ
với cháu Lót, sợ mất danh thơm tiếng tốt của nòi giống Chúa chọn, nên ông tuy
là chú nhưng đã nhường cho cháu Lót chọn phần đất nào cháu muốn, phần còn lại
là của ông. Vì lòng nhân của Abraham, Thiên Chúa phán cùng ông : “Bắc Nam Đông Tây, toàn nơi ngươi thấy
đó, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng giống ngươi đến vạn đại !” (x St 13,14-15).
* Ông Naaman bị phong cùi, ông ngoan ngoãn
làm theo lời ngôn sứ Êlisê đi tắm sông Giođan, nhờ đó ông được khỏi bệnh ! Sau
đó ông xin ít đất Israel
đưa về lập bàn thờ kính Chúa, vì ông chỉ muốn thờ Thiên Chúa trên đất dân Chúa
mà thôi ! (x 2V 5 ; Tv 136).
Vậy
ta phải hiểu đất Chúa ban trong mối Phúc này là nơi Chúa chọn cho ta được dung
thân, sống đẹp lòng Ngài. Đó chính là Hội Thánh Công Giáo, tiền trưng Nước Trời
ngày cánh chung.
*
Mối Phúc thứ ba : “Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được
Thiên Chúa ủi an.”
(Mt 5,5)
Cụ
thể như người phụ nữ tội lỗi, khóc than tội mình đã gây nên cái chết cho Đức
Giêsu,nên chị tỏ lòng biết ơn bằng việc xức dầu thơm lên chân Ngài, rồi hôn lấy
hôn để. Dù bị người đời chê trách, nhưng Đức Giêsu an ủi chị : “Tội lỗi chị tuy nhiều, nhưng yêu mến nhiều,
thì được tha, hãy về bình an !” (x Lc 7,36t)
*
Mối Phúc thứ tư : “Phúc thay ai khao khát nên người công
chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.” (Mt 5,6)
Như
ông Simêon và bà Anna suốt đời trông đợi Đấng Cứu Độ, nên ông cũng như bà đã
được phúc Chúa mở mắt Đức Tin nhận ra Hài Nhi là Đấng Cứu Độ muôn dân trông
đợi, giữa rừng người đến chầu lễ ở Giêrusalem mà không nhận ra! Ông Simêon và
bà Anna vô cùng sung sướng bồng ẵm Đấng Công Chính vào lòng, được no thỏa hạnh
phúc đến nỗi không cần gì ở đời này nữa ! (x Lc 2,25t)
*
Mối Phúc thứ năm : “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ
được Thiên Chúa thương xót.” (Mt 5,7)
Đan
cử như người Samari giúp đỡ kẻ bị cướp đánh nửa sống, nửa chết, bỏ nằm giữa
đường, hai ông Kinh sư và thầy tư tế thấy trước, nhưng bỏ đi, trái lại ông
Samari đưa vào quán trọ để nhờ chủ quán cùng chăm sóc ! Sáng hôm sau ông
Samari, trả chủ quán hai quan tiền và còn hứa khi trở lại sẽ thanh toán nốt.
bởi đó người ta hỏi Đức Giêsu : Ai là người thân cận, tôi phải chăm sóc, thì
Ngài trả lời : Hãy bắt chước lòng nhân hậu của ông Samari đã có lòng thương xót
người, nhất là đưa họ vào Hội Thánh, đó mới thực Quán Trọ (x Lc 10,29t), hay
như bà Linh Dương biết xót thương người nghèo, đã may áo trong áo ngoài tặng
nhiều người, nên lúc bà chết, được ông Phê-rô đến cầu nguyện và bà được Chúa
cho sống lại.
Hay
như bà Linh Dương thương giúp người nghèo, dù bà có chết, Chúa cũng cho sống
lại ! (x Cv 9, 36t).
*
Mối Phúc thứ sáu : “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì
họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.” (Mt 5,8)
Đức
Maria được ơn Vô Nhiễm, nên lúc nào Mẹ cũng nhìn thấy Chúa. Do đó, khi Đức Giêsu sống lại, Thánh Kinh không cho ai thấy Ngài
hiện ra với Mẹ.
Các
em bé vô tội, nên thiên thần của các em luôn luôn ở bên ngai Thiên Chúa ! (x Mt
18,10)
Còn
chúng ta đều là tội nhân, nhưng khi “đã được kết hợp với Chúa Giêsu, thì không còn bị lên
án nữa, bởi lẽ ta đã được trở nên công chính, vì Thần Khí ban cho ta được sống trong Chúa Giêsu Phục
Sinh” (Rm
8,1.10). Như thế ta đã được trực tiếp thấy Chúa Giêsu mỗi khi hiệp dâng Thánh
Lễ (x Dt 1,1-2).
*
Mối Phúc thứ bảy : “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ
sẽ được gọi là con Thiên Chúa.” (Mt 5,9)
Sách
Tông Đồ Công Vụ ghi lại cuộc Tử Đạo của Phó tế Stêphanô, ông không có ác tâm báo
thù kẻ giết mình, trái lại ông còn cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho họ. Nhờ đó,
ông biến “sói” Saolô đang bách hại Hội Thánh trở nên Tông Đồ xuất sắc đem Tin
Mừng bình an cho nhân loại, không thua các Tông Đồ thượng đẳng ! (x Cv 7-9 ; 2
Cr 11,5). Như vậy Phó tế Stêphanô đã sống Lời Chúa Giê-su dạy : “Ai thương giúp kẻ hại mình, người ấy được
đồng danh với Ngài là “Con Đấng Tối Cao” (Lc 1,32=Lc 6,35). Mà “Con Đấng Tối Cao” đến trần gian để đem hòa
bình cho loài người (x Lc 2,14).
*
Phúc nghèo và bị bách hại (thứ 1 và 8) : “Phúc thay ai
có tâm hồn nghèo khó, cũng như bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là
của họ.” (Mt
5,3.10-12).
“Nghèo vì Chúa” có nhiều cách :
a-
Biết
sử dụng của cải theo ý Chúa, như lời thánh Phaolô nói : Phải giàu có như Đức Giê-su,
nhưng vì làm giàu cho người khác, nên lại nghèo khó như Ngài (x 2Cr 8,9). Cụ
thể phải biết dùng của cải vào bốn mục đích :
1- Làm phát triển Tin Mừng, xây dựng
Hội Thánh hữu hình. (Điều răn mới của Hội Thánh – x Sách GLHT số 2041-2043).
2- Đủ nuôi sống bản thân, bảo đảm sức
khỏe. (x St 2,16).
3- Làm phương tiện phục vụ.(x Lc
19,11t).
4- Chia sẻ biểu lộ đức ái với đồng
loại. (x Mt 25,31-46).
b-
Không
sử dụng quyền lực và sức mạnh của mình để diệt kẻ khác ! Chính Đức Giêsu kêu gọi : “Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm
nhường trong lòng” (Mt 11,29). Chân lý này ta chỉ được thấy rõ nơi Đức Giêsu
trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Ngài là Đấng toàn năng, đầy quyền lực trong tay,
thế mà Ngài không dùng quyền để làm cho người khác khiếp sợ, chứ chưa muốn nói
đến Ngài có quyền diệt kẻ xúc phạm đến Ngài. Nếu ta có quyền phép như Đức Giêsu,
chắc chắn ta sẽ tỏ thị oai : Đứa nhổ bọt vào mặt ta, ta sẽ miệng nó chu ra như
mõm chuột!
c-
Đành
mất cả danh thơm tiếng tốt, như Đức Giêsu bị kết án là khùng, là mát, là kẻ bị quỷ ám…! (x Mc 3,21 ; Mt 9,34 ; Ga 10,20). Cuối cùng Ngài
mất cả mạng sống để biểu lộ lòng yêu nhân loại. Đó là cái nghèo tuyệt đối nhất,
chỉ vì yêu và chia sẻ sự sống, sự chiến thắng và hạnh phúc thật ! Bởi vậy,
triết gia Kierkegaard nói : “Đón nhận Tin
Mừng không làm đổn lộn cuộc sống như điên khùng, thì không phải là người Ki-tô
hữu chính danh, vì Thiên Chúa chúc
phúc cho con người ngay khi họ đi tìm Ngài, chứ không phải chỉ khi nào gặp được
Ngài !”
Đức
Giêsu và những kẻ theo Ngài đều đã chọn con đường thế gian cho là điên khùng vì
phục vụ, để Ngài bêu nhuốc hạng khôn ngoan, biểu lộ sức mạnh và quyền năng của Thiên
Chúa, ngõ hầu không có kẻ nào dám vênh vang trước mặt Chúa. Chính do bởi Ngài
mà chúng ta nên khôn ngoan, công chính, thánh thiện và được cứu chuộc, để ai tự
hào được “Phúc Thật”, thì hãy tự hào trong Chúa ! (1Cr 1,26-31 : Bài đọc II).
Vậy
“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần
thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,12a : Tung Hô Tin
Mừng).
THUỘC LÒNG.
Làm sao anh em trở nên giàu có như Đức Kitô, mà vì
chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có nhờ sự nghèo khó
của Ngài ! (2Cr 8,9)