BÀI GIẢNG
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
GIOAN TẨY GIẢ
NGƯỜI MẪU CỦA NIỀM HY VỌNG
Tin Mừng hôm nay nối tiếp chuyện ông Gioan Bt đang
trong tù, ông sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu : “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác?”
(Lc 7,19) [xem lại bài chia sẻ Thứ Tư sau Chúa nhật 3, mùa Vọng]. Sau khi các
môn đệ Gioan Bt đã gặp Đức Giêsu, họ trở về tin lại cho thầy Gioan Bt về những
phép lạ mà họ đã được mắt thấy tai nghe, Đức Giêsu đã chứng minh cho họ hiểu biết
về sứ mệnh của mình, sau đó, Ngài mới khen ông Gioan Bt, bởi lẽ nếu Ngài khen
Gioan Bt trước mặt các môn đệ của ông, để các ông về báo lại cho thầy, thì
không có lợi về đàng thiêng liêng cho thầy trò Gioan Bt. Vì nếu ai chỉ tìm phần
thưởng đời này thì sẽ mất phần thưởng đời sau (x Mt 6). Ngài khen ông Gioan Bt
về bốn điểm sau đây :
-
Tinh thần cương nghị
của ông Gioan Bt.
-
Ông Gioan Bt sống nghèo
là dấu ông dạy mọi người biết chia sẻ.
-
Sứ mệnh của ông Gioan
Bt là trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.
-
Danh dự của ông Gioan
Bt trong thân phận phàm nhân thì không ai sánh bằng.
&&&
I/ TINH
THẦN CƯƠNG NGHỊ CỦA ÔNG GIOAN BT.
Đức
Giêsu nói về ông Gioan Bt : “Anh em đi
xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió ư ?” (Lc 7,24b :
Tin Mừng).
Ông
Gioan Bt không giống cây sậy trước luồng gió mạnh: “Gió chiều nào ngả chiều đó”. Vì
1. Ông không thỏa hiệp, không khoan nhượng trước sự ác,
ông không sống xu thời, bợ đỡ, nịnh hót, luồn cúi bất cứ ai, kể cả người có
quyền thế, để lân la kiếm chác lợi nhuận cho bản thân. Nhưng ông đã mạnh miệng
cảnh cáo vua Hê-rô-đê không được cướp vợ của người anh làm vợ của mình, vì thế ông
chấp nhận ngồi tù và cuối cùng bị mất đầu ! (x Mt 14,3t).
2. Ông cũng không run sợ trước bạo lực, khác hẳn vua
Akhaz nghe tin các nước chung quanh liên kết tấn công nước Giuđa, làm cho ông
run sợ, hai đầu gối “hôn nhau”, rồi ông đi luồn cúi các thầy tướng số, để được
chỉ dẫn cách đương đầu với đối phương (x Is 7,2t).
II/ ÔNG
GIOAN BT SỐNG NGHÈO LÀ DẤU ÔNG DẠY MỌI NGƯỜI BIẾT CHIA SẺ.
Đức
Giêsu nói về ông Gioan Bt : “Anh em đi
xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là ư ? Nhưng kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống
xa hoa thì ở trong cung điện” (Lc 7,25 : Tin Mừng).
Mặc
dầu ông là con một của một gia đình tư tế giàu có, nhưng nhu cầu thân xác của
ông Gioan rất đơn giản : “Ông mặc áo lông
lạc đà, xiêm thắt lưng bằng da thú, thức ăn là châu chấu và mật ong dại : Nước
nho khô” (Mt 3,4).
Ông
Gioan Bt dùng của cải đơn giản như thế là dấu ông muốn kêu gọi mọi người phải
chia sẻ : “Ai có hai áo hãy chia cho
người không có một cái, và kẻ có của ăn cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,11), đó
mới là mặt nổi của tình yêu, như lời thánh Gioan Tông Đồ nói : “Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng
việc làm thực sự” (1Ga 3,18). Chia sẻ với tâm tư mình vui lòng chịu thua lỗ
để người anh em thêm hạnh phúc. Thánh Phaolô nói : “Làm sao anh em phải giàu có như Đức Kitô, nhưng vì chúng ta, Ngài đã
trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài” (2Cr 8,9).
Như
thế bản chất cái nghèo là một sự dữ, nhưng vì phục vụ người khác ta trở nên
nghèo, thì đó là “tinh thần nghèo khó”, một nhân đức mở đầu và kết thúc trong
Hiến Chương Nước Trời, đáng được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp (x Mt 5,3.11).
III/ SỨ
MỆNH CỦA ÔNG GIOAN BT LÀ TRỰC TIẾP DỌN ĐƯỜNG CHO ĐẤNG CỨU THẾ ĐẾN.
Đức Giêsu nói : “Anh
em đi xem gì ? Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó ; mà tôi nói cho anh em : Đây
còn hơn cả ngôn sứ nữa ! Chính ông là người Thiên Chúa đã nói trong Kinh Thánh
rằng : Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước
mặt Con, Người sẽ dọn đường cho Con đến”
(Lc 7,26-27 : Tin Mừng).
Như thế, Đức Giêsu xác nhận ông Gioan Bt có hai sứ
mệnh :
1- Sứ mệnh
ngôn sứ : Ông Gioan Bt là ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, được Chúa dùng
ông chuẩn bị lòng người đón Đấng Cứu Độ muôn dân. Đối với người Do Thái họ phải
hiểu lời ông Gioan Bt là lời kêu gọi cuối của Thiên Chúa, để từ thời mong đợi
(Cựu Ước) vào thời Tân Ước “Thiên Chúa thực hiện những điều Ngài đã hứa”. Lời cuối
cùng của một người bao giờ cũng cất nghiêm trọng.
2- Sứ mệnh dọn
đường cho Đấng Cứu Thế : Ông Gioan Bt hơn hẳn các ngôn sứ thời xưa, vì các
ngôn sứ xưa chỉ vái chào Đấng Cứu Thế từ
đằng xa (x Dt 11,13), chẳng vị nào được nhìn thấy Đấng Cứu Thế một cách
nhãn tiền. Như thế các ngôn sứ thua xa ông Gioan Bt vì ông được sống đồng thời
với Đấng Cứu Thế, chính mắt ông được nhìn thấy Đấng mà các tổ phụ cũng như các
ngôn sứ ước ao được nhìn thấy mà không được ! (x Mt 13,16-17) Ông Gioan Bt bắt
đầu công việc dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, bằng việc ông làm phép rửa cho
mọi loại người, kể cả Đấng Cứu Thế tại sông Giođan, khi ấy họ tưởng ông là Đấng
Cứu Thế, nhưng thực ra ông có dịp giới thiệu cho loài người phải tin theo Chúa
Giêsu, Ngài mới thực là Đấng Cứu Thế. Ông nói với dân: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, Đấng đến sau tôi lại có trước tôi,
tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài, chính Đấng ấy đang ở giữa anh em, Ngài sẽ
thanh tẩy anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa” (x Lc 3, 1-18).
IV/ DANH DỰ
CỦA ÔNG GIOAN BT TRONG THÂN PHẬN PHÀM NHÂN THÌ KHÔNG AI SÁNH BẰNG.
Chính Đức Giêsu nói về ông Gioan Tẩy Giả : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không ai
cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao
trọng hơn ông” (Lc 7,28 : Tin Mừng).
A. SỞ DĨ GIOAN TẨY GIẢ CAO TRỌNG NHẤT TRONG NHỮNG
NGƯỜI DO NGƯỜI NỮ SINH RA, vì từ gốc tổ loài người là Adam, Eva cho đến hết
thảy mọi người tới ngày cánh chung, không một người nào có mặt trên trái đất giống
Đức Giêsu về cuộc sống trên dương thế như ông Gioan. Thực vậy, giữa Đức Giêsu
và ông Gioan Bt từ lúc sinh vào đời cho đến lúc chết, có nhiều điểm tương đồng
rất sít sao, mà trong nhân loại không ai có được.
1- Ông Gioan Bt và Đức Giê-su trước khi được tượng thai
trong lòng mẹ đều do Thiên thần Gabriel
báo tin (x Lc 1,19 = Lc 1,26).
2- Ông Gioan Bt và Đức Giêsu đều được sinh ra từ đôi vợ chồng khác thường : Cha mẹ của Gioan Bt đã
gần 100 tuổi mà vẫn son sẻ, thế mà ông Dacarya được thiên thần báo tin cho biết
: Vợ chồng ông sẽ sinh con ; cũng thế, Đức Giêsu được sinh ra trong một gia
đình mà vợ chồng không ăn ở với nhau (x Lc 1,7 = Lc 1,34), vì ông Giuse sống
hướng về thời cánh chung : “Có vợ mà kể
như không có” (1 Cr 7,29).
3- Tên Gioan Bt và tên Đức Giêsu đều
được Thiên thần bảo cha mẹ phải đặt cho con mình như thế (x Lc 1,13 = Lc
1,31 và Mt 1,21).
4- Thân thế ông Gioan Bt và Đức Giêsu đều thuộc dòng tộc giàu có : Gioan Bt
là con vị tư tế ở thành Giêrusalem ; Đức Giêsu là Con của Vua Cả trời đất, thế
mà cả hai Vị sinh ra trong cảnh nghèo : Ông Gioan Bt sau khi được cắt bì, thì
thụ mệnh trong sa mạc (x Lc 1,80) ; Đức Giêsu thì được mẹ Ngài lấy tã bọc đặt
nằm trong máng cỏ (x Lc 2,7).
5- Ông Gioan Bt và Đức Giêsu đều thống nhất chương trình hành động. Vì cả hai Vị đều mở đầu sứ
mệnh bằng lời kêu gọi mọi người : “Hãy
sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (x Mt 3,2 = Mt 4,17).
6- Sứ điệp Tin Mừng của ông Gioan Bt và của Đức Giêsu đều nóng bỏng và dứt khoát, không khoan
nhượng cho những kẻ bất lương, nhất là những kẻ không tin Đức Giêsu là
Đấng cứu độ duy nhất (x Cv 4,12). Cụ thể
:
-
Ông Gioan Bt nói với
mọi người : “Cái rìu đã để sẵn gốc cây,
cây nào không sinh trái thì bị chặt quăng vào lò lửa” (Mt 3,10). Có nghĩa
là ngay hôm nay ai không tin vào Chúa Giêsu để làm việc thiện, thì phải diệt
ngay.
-
Còn Đức Giêsu nhìn cây
vả lớn, lá xum suê, Ngài đến tìm quả mà không có, dù lúc ấy không phải là mùa
trái vả, mà ngài lại lên tiếng trách nó : “Không
bao giờ Ta ăn trái mày nữa !” Sáng hôm sau, các môn đệ đi ngang qua thấy
cây vả đã chết khô từ ngọn đến rễ (x Mt 21,18-19) : Cây vả lớn là dấu chỉ những
người được Thiên Chúa nuôi dưỡng và giáo dục mà hôm nay không trở nên người công
chính, nhờ tin vào Chúa Giêsu (x Gl 2,16), thì kẻ đó không thể được cứu độ.
7-
Ông Gioan Bt và Đức Giêsu đều động viên mọi
người chia sẻ :
-
Ông Gioan Bt kêu gọi : “Ai có hai áo hãy
chia cho người không có một cái, và ai có của ăn thì cũng hãy làm như vậy”
(Lc 3,11).
-
Chúa Giêsu dạy : “Cho thì có phúc hơn là
lấy” (Cv 20,35)
8- Ông Gioan Bt và Đức Giêsu đều chết vì chân lý :
-
Ông Gioan Bt dám lên
tiếng trách vua Hêrôđê không được cướp vợ anh mình, vì thế ông bị cắt đầu (x Mt
14,3t).
-
Đức Giêsu lên tiếng
khiển trách những đầu mục Do Thái sống đạo
hình thức : Giả bộ đọc kinh dài để nuốt chửng tài sản bà góa, làm cho
người tân tòng thành con cái hỏa ngục gấp đôi mình, lại còn ngăn cản những ai
muốn vào Nước Trời (x Mt 23). Do đó Ngài bị treo trên thập giá (x Mt 27,23t).
B.
KẺ NHỎ TRONG NƯỚC TRỜI CÒN CAO TRỌNG HƠN ÔNG GIOAN TẨY GIẢ.
* Thuật ngữ “kẻ nhỏ” trong Tân Ước luôn luôn chỉ về
những người thuộc về Hội Thánh, những người được Chúa Giê-su cứu độ. Thực vậy,
các Tông Đồ là những người lớn tuổi, mà Đức Giêsu đòi hỏi họ phải trở nên trẻ
nhỏ mới được vào Nước Thiên Chúa (x Mt 18,3) ; Ngài nói với các môn đệ : “Hỡi các con thơ bé, Thầy chỉ còn ở với các
con một ít nữa thôi” (Ga 13,33a) ; cũng như Ngài nói : “Đừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha chúng
con đã khấng ban Nước Trời cho chúng con” (Lc 12,32).
* Các thư của thánh Gioan viết cho các giáo đoàn có
nhiều người lớn tuổi, thế mà ông luôn luôn gọi họ là : “Hỡi các con thơ bé” (x 1Ga 2,1.12.14.18.28).
Vậy
“kẻ nhỏ trong Nước Trời lớn hơn ông Gioan
Tẩy Giả”, chính là những người đã lãnh Bí tích Khai Tâm, họ hơn ông Gioan những
điểm sau :
1.
Ông Gioan Bt chỉ là chú phù rể của Tân
Lang Giêsu (x Ga 3,29) ; trong khi đó người Công Giáo được gọi là Hiền Thê
của Chúa Giêsu, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy (x 2Cr 11,2).
2. Ông
Gioan Bt sinh ra bởi dòng giống Adam, Eva, thua xa người Công Giáo được tái
sinh bởi Adam cuối cùng là Chúa Giêsu (x Cv 2,38). Mà ai liên kết với Adam thứ
nhất, thì phải chết.Trái lại, ai liên kết với Adam cuối cùng (Chúa Giêsu), thì
được sống hạnh phúc sung mãn muôn đời (x Rm 5,12-21). Bởi thế tác giả thư Do
thái nói về vinh dự của người Công Giáo: “Đấng
tác thánh và những người được thánh hóa cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự sống với Chúa Ba
Ngôi, đến nỗi được đồng hóa với Chúa Giêsu ” (Dt 2,11 ; Ga 6,57 ; Gl 2,20).
3.
Ông Gioan Bt so với Đức Giêsu không đáng
giá gì, dù người ta tưởng ông là Đấng Kitô, là ngôn sứ Êlya, hay một vị
ngôn sứ nào đó. Nhưng ông Gioan Bt ba lần nói KHÔNG phải : “Tôi không phải là Đấng Kitô, tôi không phải
là Êlya, tôi không phải là một ngôn sứ”, ông chỉ là tiếng kêu trong sa mạc,
và ông tuyên bố : “Đấng đến sau tôi (Đức
Giêsu), trổi vượt hơn tôi, tôi không xứng
đáng cởi quai dép cho Ngài” (Ga 1,20-27). Như vậy, Đức Giêsu là Số Một, ba
lần không của ông Gioan đứng sau Số Một
trở thành số ngàn. Rõ ràng nếu không có số một, thì cả tỷ zero cũng là zero,
nhưng nhờ số một, zero trở nên giá trị gấp mười! Đến như người Công Giáo có thể
nói được như ông Phaolô : “Tôi sống,
không phải là tôi, mà Chúa Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20). Nhất là khi Chúa
Giêsu về Trời, ai được kết hợp nên một với Ngài, thì được Ngài hứa : “Kẻ ấy làm được những việc như tôi làm, mà
còn làm những việc lớn lao hơn thế nữa” (Ga 14,12). Cụ thể cả cuộc đời Đức
Giêsu phục vụ đến chết, mới đưa một anh trộm lành vào Thiên Đàng ; còn người
Công Giáo mỗi khi đi dự Lễ, hiệp thông với Hội Thánh cầu nguyện cho những người
đã qua đời, thì biết bao linh hồn được về Thiên Đàng ; hoặc Chúa Giêsu không
lập một giáo đoàn nào, trong khi đó ông Phaolô khai sinh được rất nhiều giáo
đoàn…
Bởi
vậy ông Luca ghi nhận những người Pharisêu và các kinh sư thua xa “người thu
thuế và gái điếm” : “Nghe ông Gioan Bt giảng,
toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Công
Chính và đã chịu phép rửa của ông. Còn những người Pharisêu và các nhà thông luật
thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông”
(Lc 7, 29-30 : Tin Mừng).
Vậy Đức Giêsu khen những kẻ bé nhỏ trong Nước Thiên
Chúa hơn ông Gioan Bt, vì họ giống những người thu thuế và gái điếm đã tin lời
giảng của ông Gioan Bt mà đến với Đức Giêsu, để được Ngài dẫn vào sống trong Hội
Thánh, thuộc đoàn chiên Ngài chăm sóc, đặc biệt trong mỗi Thánh Lễ.
1- Dân
Thiên Chúa không liên hệ với người phàm mà vẫn sinh con cho Thiên Chúa qua Bí
tích Thánh Tẩy. Ngôn sứ Isaia nói :
“Phụ nữ son sẻ chưa một lần chuyển dạ
đông con hơn phụ nữ có chồng” (Is 54,1).
2- Dân
Thiên Chúa có mặt trên khắp thế giới, chứ không chỉ giới hạn nơi dân tộc Do
Thái. Ngôn sứ Isaia nói : “Hãy nới rộng lều ngươi đang ở, đừng hẹp lòng
hẹp dạ, nối dây thừng dài thêm, vì ngươi sẽ tràn ra hai bên tả hữu, dòng dõi
ngươi sẽ thừa kế các dân tộc và đến ở trong các thành bỏ hoang” (Is
54,2-3).
3- Dân
Thiên Chúa được thanh tẩy để tái lập tình yêu. Ngôn sứ Isaia nói : “Ngươi sẽ không phải xấu hổ, ngươi sẽ quên hết nỗi hổ thẹn tuổi thanh
xuân. Như người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm hồn sầu muộn. “Người vợ cưới lúc thanh
xuân ai mà rẫy cho đành”. Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng
vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp. Một thời ngoảnh mặt chẳng
nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót chuộc
ngươi về” (Is 54, 4.6-8).
4- Dân
Thiên Chúa là Hiền Thê của Chúa Kitô.
Ngôn sứ Isaia nói : “Đấng cùng ngươi sánh
duyên cầm sắc, chính là Đấng đã tác thành ngươi, tôn danh ngươi là Đức Chúa,
Đấng đã chuộc ngươi về” (Is 54, 5).
5- Chỉ
những ai sống trong Hội Thánh mới đánh gục tử thần, để được sống muôn đời hạnh
phúc. Chúa nói : “Như thời ông Noe lúc đó Ta đã thề rằng hồng
thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa, cũng vậy, nay Ta thề sẽ không còn nổi giận
và hăm dọa ngươi đâu, vì tình thương của Ta đời đời không lay chuyển” (Is
54,9-10).
Như thế chỉ những người được Chúa Giêsu cứu độ trong
Hội Thánh của Ngài mới biết mở miệng ca tụng: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì Ngài đã thương cứu vớt” (Tv 30/29,2a : Đáp ca).
Vậy dù ta được cao cả hơn ông Gioan Bt, nhưng chỉ
thấy rõ trong ngày cánh chung. Thánh Gioan nói : “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ; nhưng chúng ta sẽ như thế nào,
điều ấy chưa được bày tỏ.Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện,chúng ta sẽ
nên giống như Người,vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.” (1Ga
3,2). Bởi đó thánh Phaolô nói : “Chúng ta đã được cứu độ,
nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn
phải là trông mong nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi?Nhưng nếu
chúng ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ” (Rm 8,24-25). Còn bây giờ ta hãy dọn tâm hồn để đón Chúa Giêsu Phục
Sinh vào lòng qua việc tham dự Thánh Lễ. Ngài ở cùng chúng ta, chắc chắc Ngài
giúp ta “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa,
sửa lối cho thẳng để Người đi. Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa” (Lc 3,4.6 : Tung Hô Tin Mừng), vào ngày cánh chung được Chúa đón về
Trời chung hưởng phúc vinh với Ngài đến muôn đời.
THUỘC LÒNG
Ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và
Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi, như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng
tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về, như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi
thờ (Is 62,4-5).