BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC I : 2 Mcb 7, 1.20-23.27b-29
1
Hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân
bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm.
20 Bà mẹ là người rất mực
xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải
chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy
bà đặt nơi Đức Chúa.21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng
người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người
phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con:22
"Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban
cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho
mỗi người trong các con.23 Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc
nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương
xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con
trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình."
27b Bà nói với người con út
: "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã
nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu.28 Mẹ xin con hãy nhìn xem
trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả
từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.29 Con đừng sợ
tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái
chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho
mẹ."
ĐÁP CA : Tv 125
Đ. 5 Ai
nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp
khởi mừng.
1 Khi Chúa dẫn tù nhân
Xi-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. 2ab Vang vang ngoài
miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
2cd Bấy giờ trong dân
ngoại, người ta bàn tán: "Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay! " 3
Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui.
4 Lạy Chúa, xin dẫn tù
nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.5 Ai nghẹn
ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
6 Họ ra đi, đi mà nức nở,
mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.
BÀI ĐỌC II : Rm
8,31b-39
31b
Thưa anh em, có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?32
Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy
chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất
cả cho chúng ta?33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn?
Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính?34 Ai sẽ kết án họ?
Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên
hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
35
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian
truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?36 Như có
lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để
sát sinh.
37
Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
38
Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma
vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,39
trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách
được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su,
Chúa chúng ta.
BÀI GIẢNG
CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Ngày
khai sinh của Giáo Hội Việt Nam vinh dự không kém ngày Sinh Nhật của Giáo Hội
Mẹ Roma, vì cả hai đều được sinh ra trong máu của người tin Chúa Giê-su suốt
300 năm. Ở Việt Nam, cuộc bách hại bắt đầu từ thế kỷ thứ 16, và khốc liệt nhất
vào thế kỷ thứ 19.
Ngày 19/06/1988, Đức
Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho 117 vị, trong số 130.000 người Tử Đạo
tại Việt Nam, gồm có :
8
Giám mục ; 50 Linh mục ; 14 thầy giảng ; 1 chủng sinh, 44 giáo dân. Trong đó có
10 vị người Pháp, 11 vị người Tân Ban Nha, còn lại là người Việt.
Các
thánh trên đã Tử Đạo bởi 5 triều đại vua sau đây:
* Trịnh Nguyễn
(1745-1773) : 4 vị.
* Cảnh Thịnh (1798) :
2 vị.
* Minh Mạng (1820-1840) : 50 vị.
* Thiệu Trị (1841-1847) : 3 vị.
* Tự Đức (1848-1883) : 58 vị.
Các ngài chịu đủ mọi cực hình :
- Bá đao (mỗi người bị cắt
100 miếng thịt) : 1 vị.
- Lăng trì (chặt chân tay
trước khi chém đầu) : 4 vị.
- Thiêu sống : 6 vị.
- Chém đầu : 75 vị.
- Xử giảo (quấn dây vòng
cổ rồi kéo hai đầu cho đến chết : 22 vị.
- Rũ tù : 9 vị.
- Người cao tuổi nhất như
cha Loan 84 tuổi ; trẻ nhất như Tô-ma Thiện 18 tuổi. Trong số 117 vị Tử Đạo chỉ
có một phụ nữ là bà A-nê Lê Thị Thành (thánh Đê.)
Các vị trên đủ mọi thành
phần trong đạo-đời, quan có, lính có, dân có ;
nhưng đa số là giáo sĩ trong Hội Thánh : Giám mục, Linh mục, chủng sinh.
Số người trẻ từ 18 đến 40 tuổi chiếm 1/3 trong 117 vị Tử Đạo.
Ngày 15/10/1989, Hội
Đồng Giám mục Việt Nam xin Tòa Thánh ghi vào lịch Phụng Vụ thế giới : ngày
24/11 là ngày kính các thánh Tử Đạo, nhằm kỷ niệm ngày thành lập Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam năm 1958, và được Bộ Phượng Tự chấp thuận ngày 14/02/1990, và đặc
biệt được kính trọng thể vào Chúa nhật 33, áp Chúa nhật 34, lễ Chúa Ki-tô Vua,
với hàm ý : 117 vị thánh Tử Đạo tại VN đã phần nào diễn tả chiến thắng của Vua
vũ trụ.
VINH QUANG CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO Ở ĐIỂM NÀO?
Thực ra, tổ chức nào,
tôn giáo nào cũng có những anh hùng, họ đâu trông cậy vào ơn Chúa giúp. Đan cử
- Anh Nguyễn văn Trỗi dám
liều mạng ám sát Đại sứ Hoa Kỳ tại cầu Công Lý Saigon. Anh đã được Đảng Cộng
sản VN tôn vinh là anh hùng dân tộc.
- Thượng tọa Thích Quảng
Đức phản đối chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bằng việc tự thiêu, nên được Phật
Giáo tôn vinh như Phật sống.
Đối với các thánh Tử Đạo, giá trị của các ngài hệ tại ở
chỗ minh chứng Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, chỉ vì :
I/ TIN VÀO GIÁ TRỊ PHỤC SINH.
Niềm tin này đã được mạc khải trong sách Macabê : Bà mẹ động viên bảy người con
đừng sợ những khổ hình do vua Antiokho ra lệnh dùng roi và gân bò đánh cho
chết, nếu không ăn thịt heo! Bà nói : “Mẹ
không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các
con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi
người trong các con.Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và
đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống,
bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình." (2Mcb7,1.20-23:
Bài đọc I).
II/ TIN VÀO ĐỨC GIÊSU LÀ CON MỘT
THIÊN CHÚA CHA BAN TẶNG ĐỂ CỨU THẾ GIAN, ngoài Ngài không có thần thánh nào
biến dữ ra lành cho con người để sống hạnh phúc dồi dào muôn đời (x Cv 4,12).
Thánh Phao-lô nói : “Có Thiên Chúa bênh
đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa
cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người
Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban cho chúng ta tất cả làm một với
Ngài? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng
làm cho nên công chính ? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã
chết, hơn nữa đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ?
Phải chăng là gian truân, khốn khó, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giao?
Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Bởi thế không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên
Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,31b-39 : Bài đọc
II).
III/ ĐỨC TIN, ĐỨC MẾN CỦA NGƯỜI
CÔNG GIÁO PHẢI THỂ HIỆN BẰNG VIỆC LÀM. Đức Giê-su dạy : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng
sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24 : Tin Mừng).
Khi Đức Giê-su vác thánh giá chính là lúc Ngài dâng Lễ, nên Ngài dạy : “Ai muốn theo tôi, thì hãy vác thập giá của
mình hằng ngày mà theo”, có nghĩa là hằng ngày ta phải đấu tranh với mọi
nghịch cảnh, để có giờ cùng hiệp dâng Thánh Lễ với Ngài. Có thế mới cứu được mạng sống mình, và
như vậy đi dự Lễ càng phải trả giá đắt, đến
nỗi mất mạng như các thánh Tử Đạo, càng bày tỏ lòng mến cao, thì càng được
nhiều ơn. Đấy mới thực là ý nghĩa và giá trị Chúa dạy ta phải vác thập giá
mình mà theo Ngài mỗi ngày, chứ không phải là Ngài nhắm dạy ta : Phải chịu khó làm việc bổn phận thì thu tích
được nhiều tiền của ! Nếu ta chỉ chú ý cần cù làm việc để đạt thành công trong xã hội, đó chỉ là nhân bản, chẳng cần đến Chúa
nào dạy, người vô thần họ vẫn dạy nhau : “tất
cả cho sản xuất để được giàu mạnh”, và chứng minh được “lao động là vinh quang”, nhưng vẫn thua
kiếp trâu ngựa! Người Công Giáo dựa trên Đức Tin, ai cũng phải xác tín rằng : dù có cần cù chịu khó làm việc, đạt thành
công đời này, mà không kết hợp với Chúa Giê-su Thánh Thể, thì phải nhớ Lời Chúa
Giê-su dạy : “Được lời cả thế gian mà mất
sự sống mình thì nào có ích gì” (Lc 9,25 : Tin Mừng).
Nhờ kết hợp nên một với
Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta sẽ được:
1- Chúa Giê-su Phục Sinh thanh tẩy tâm hồn ta. Thánh Gioan đã nhìn
thấy thị kiến về sự chiến thắng của những người đã chết để làm chứng cho Tin
Mừng : “Một đoàn người đông vô kể thuộc
mọi dân, mọi ngôn ngữ. Họ trải qua thử thách lớn lao, họ giặt và tẩy sạch áo
mình trong Máu Con Chiên, không còn đói khát, không bị nắng thiêu đốt, chính
Con Chiên dẫn họ tới nguồn nước trường sinh, họ mặc áo trắng, tay cầm cành lá
thiên tuế tung hô : “Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, xin chúc tụng vinh
quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh đến muôn đời”
(Kh 7,9-17).
2- Ngài cộng tác trong mọi việc lành ta làm, có thế mới tôn
vinh Thiên Chúa (x Rm 11,36). Bởi vì mọi việc con người làm ngoài Chúa Giê-su, trước sau
sẽ ra tro bụi, nhưng nếu được làm trong Chúa Giêsu, thì việc ấy có giá trị cứu
độ, và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu không ai có thể cướp mất! (x Cv
5,38-39) Chính vì vậy mà Đức Giêsu khẳng định : “Ngoài Ta, các ngươi không thể làm được việc gì” (Ga 15,5b)
3- Ngài ban cho chúng ta nghị lực đối đầu với nghịch cảnh để
làm chứng cho Ngài, đến nỗi:
Vua Duy Tân hỏi các quan
:
- Tay dơ lấy gì rửa?
- Thưa lấy nước rửa.
- Nước dơ lấy gì rửa?
Không ai đáp. Vua nói tiếp :
- Lấy máu rửa nước Việt
Nam.
Nhưng đối với các thánh
Tử Đạo không vì lời ấy mà làm cho các
ngài hoảng sợ đến chối bỏ Đức Tin, bởi vì :
- Kẻ nhút nhát thì sợ thần
chết!
- Đứa tuyệt vọng thì tìm
cái chết!
- Tên hưởng thụ thì chẳng
nghĩ chết!
- Người anh hùng thì liều
mạng chết!
- Đấng Khôn Ngoan thì
chuẩn bị chết!
Chuẩn
bị chết cụ thể là :
a. Bằng lòng mất hết lợi nhuận đời này, như người mẹ động viên
đứa con út trong bảy người con sắp lãnh án tử chỉ vì muốn trung thành với giáo
lý của Chúa : “Con ơi, con hãy thương mẹ:
chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này
tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời
đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư
vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này;
nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày
Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ." (2Mcb
7,27-29 : Bài đọc I).
b. Bằng lòng mất mạng để giữ vững
Đức Tin, sau này Chúa trả lại vẹn toàn thân xác bất tử, như Lời Đức
Giê-su đã hứa với các môn đệ : “Ai từ bỏ
mọi sự mà theo Ta sẽ được lãnh gấp trăm bây giờ ở đời này về nhà cửa, anh chị
em, cha mẹ và con cái cùng ruộng vườn, làm
một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sau hết” (Mc
10,30).
c. Bằng lòng mất đạo hiếu với cha mẹ
trần thế vì phải hiếu với Cha trên trời, tức là kiên trì bảo vệ chân lý.
Đan cử : Vua Sao-lê đã hứa truyền ngôi cho con trai là Gionathan, thế nhưng Gionathan
thấy vua cha tìm mưu tính kế để diệt Đavid, chỉ vì Đavid được toàn dân tung hô
: ông mạnh gấp mười vua Saolê, vì ông thành công trên mọi chiến trường để bảo vệ bình an cho dân
tộc và giữ vững vương quyền Sao-lê, nên Gionathan tìm hết cách để Đavid khỏi sa
vào lưới vua cha. Ông sống như thế chắc chắn bị người đời kết án là bất hiếu. Vì “ăn cây nào rào cây đó”, và “một
giọt máu đào hơn ao nước lã” (x 1Sm 20).
Vì thế mà Đức Giêsu nói
: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an
cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả
vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa
con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10,34-36).
Để minh chứng nhờ Chúa
Giê-su ban nghị lực cho những ai tuyên xưng Ngài mà bị bách hại, thánh Phaolô
Lê Bảo Tịnh, đã viết thư gởi các chủng sinh Chủng Viện Kẻ Vĩnh :
“Tôi là Phaolô, đang bị xiềng xích vì Đức Kitô. Tôi muốn nói cho anh em
biết những gian truân tôi đang chịu hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến
Chúa mà hợp với tôi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa : Chúa yêu thương ta đến muôn
đời.
Ngục thất này quả là một hình ảnh sống động của hỏa ngục
đời đời : ngoài gông cùm, xiềng xích, dây thừng, lại còn thêm sự nóng giận, oán
thù, nguyền rủa, những lời tục tĩu, những sự gây gổ, những hành vi xấu xa,
những lời thề gian, nói hành, và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả ruồi muỗi rận
rệp.
Nhưng Đấng đã giải thoát ba người thanh niên ngọn lửa
bừng bừng vẫn luôn ở cùng tôi ; Người cũng giải thoát tôi khỏi những sự khốn
khó này bằng cách làm cho trở nên ngọt ngào : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu,
nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan, bởi vì tôi không chỉ có
một mình, nhưng có Đức Ki-tô ở cùng tôi. Người là Thầy của chúng ta, Người mang
tất cả sức mạnh của thập giá, chỉ để cho tôi đỡ phần nhẹ nhất. Người không chỉ
nhìn tôi chiến đấu, mà chính Người đang chiến đấu và chiến thắng. Vì thế, triều
thiên vinh quang đã được đặt trên đầu Người, nhưng chi thể cũng được hân hoan
vì vinh quang của Đầu”.
Ông Pascal nói : “Vũ trụ có khả năng đè bẹp tôi, nhưng tôi vẫn
hơn vũ trụ, vì vũ trụ không biết gì về chiến thắng của nó, còn tôi, tôi biết về
sự chết của mình”.
Tác giả sách Khôn ngoan
nói : “Nhìn thấy các vị Tử Đạo chịu khổ
hình như thế, bọn ngu si coi họ như đã chết, cho là gặp tai họa, bị tiêu
diệt, nhưng thực ra họ đang hưởng bình
an, chứa chan hy vọng, trường sinh bất tử. Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ
được hưởng ân huệ lớn lao, họ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy, họ
có quyền xét xử muôn dân, thống trị muôn nước” (Kn 3,2-8a).
Nhưng “ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai
sau khấp khởi mừng” (Tv 126/125,5 : Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Ông
Tertuliano nói : “Máu các thánh Tử Đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”. Vì
“người
ta càng áp bức dân Chúa, thì dân Chúa càng thêm đông đảo bành trướng ra, khiến
thiên hạ phải run khiếp” (Xh 1,12)
ĐỌC THÊM :
TRÍCH BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC
THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II
TRONG ĐẠI LỄ TÔN VINH HIỂN THÁNH
117 VỊ CHÂN PHƯỚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
TẠI RÔMA NGÀY 19/06/1988
“Lên tiếng với anh em để
hô vang Chúa Kitô Tử nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh
em vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các vị thánh Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam
anh em đã nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai,
xuất xứ từ những nước đã in sâu mầm mống đức tin Chúa Ki-tô.
Làm sao kể lại cho hết ?
Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo
dân, trong số đó có một phụ nữ là thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.
Truyền thống còn ghi nhớ
lịch sử chết vì đạo của Giáo Hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc
ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa được truyền đạo,
Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại suốt ba thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng,
giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn vạn giáo
dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước
độc !
Để lấy một ví dụ : Trong
các vị Tử Đạo hôm nay, đi tiên phong có thánh Vinh-sơn Liêm, dòng Đaminh là
người Việt tử đạo đầu tiên năm 1773. rồi tới Linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh
trưởng trong một gia đình rất nghèo khó, bên lương, từ nhỏ đã phải “bán” cho
một thầy giảng dạy giáo lý, nhưng rồi Chúa cũng cho tới chức Linh mục năm 1823,
được bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên thành nhà truyền giáo trong nhiều địa
hạt.
Nhiều lần đã bị lao tù,
nhưng vẫn được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài
mong chờ được chết vì Chúa. “Những người
chết vì đức tin, ngài nói – thì lên Thiên đàng thẳng rẵng ; tại sao chúng ta cứ
phải ẩn náu, phải tốn tiền đút lót cho quan quyền ; thà để cho chúng tôi bị bắt
và rồi tử đạo cho phải hơn không ?” Thực ra vẫn một ý chí hăng say và được ơn
Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21/12/1839.
Một lần nữa, hỡi Giáo
đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho anh em rằng : máu các thánh Tử Đạo là
nguồn ân sủng cho anh em trước tiên, để anh em thăng tiến trong đức tin. Giữa
anh em, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ
tương lai.
Đức tin này tồn tại để
làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy
sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu
của Chúa Ki-tô.
Ai là người tín hữu đều
ý thức rằng : Lời kêu gọi của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài
người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng
con người tự do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và
tôn trọng công quyền và thể chế quốc gia. (x 1Pr 2,13-17)
Do đó công ích của quốc
gia vẫn là thời điểm người công dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự
do tuyên xưng chân lý của Chúa, được cảm thông với các vị chủ chăn và anh em
đồng tín ngưỡng : và như thế là để sống an bình với mọi người và thực tâm xây
dựng hạnh phúc cho toàn dân.”
(Trích Thiên Hùng Sử tr 20-25)