BÀI GIẢNG
ƠN CỨU ĐỘ
NHỜ CHÚA THƯƠNG XÓT !
Tuần
trước chủ đề Cầu Nguyện nhấn mạnh đến kiên trì sống công chính trong xã hội đầy
gian ác. Nghĩa là để được ơn cứu độ, người ta phải đương đầu với cách sống bất
lương, đấu tranh cho công lý trong môi trường xã hội họ sống.
Nhưng
như thế chưa đủ, nên tuần này Phụng Vụ lại phải dẫn ta đến Nhà Thờ để xem “ai
hạ mình xuống sẽ được nhắc lên; còn kẻ nào nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống”
(x Lc.18,14: Tin Mừng). Vì ơn cứu độ
không chỉ hệ tại do công đức của mỗi người, mà quan trọng nhất là do lòng thương xót Chúa đổ xuống trên những tấm lòng khiêm nhường,
và Chúa chống lại kẻ kiêu căng (tuần này).
Vậy
thế nào là kiêu căng? Thế nào là khiêm nhường? Căn cứ vào dụ ngôn Đức Giêsu kể
trong Tin Mừng hôm nay : Kiêu căng là kẻ
tự mãn cậy dựa vào sức mình giữ Lề Luật mà khinh bỉ người khác ; còn khiêm
nhường là người chỉ thấy mình là kẻ tội lỗi, bất lực, chỉ biết trông cậy vào
lòng Chúa xót thương.
Ông
Biệt phái và người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ rõ nét khuôn mặt kẻ
kiêu căng, và chân tướng người khiêm nhường :
A. CHÚA CHỐNG LẠI KẺ KIÊU NGẠO.
Hai thái độ kiêu ngạo của ông Biệt phái :
-
Sống cậy dựa vào việc giữ Lề Luật.
- Khinh bỉ và kết án người khác.
1.
Sống cậy dựa
vào việc giữ Lề Luật, như lời ông nói :
a-“Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần”
(Lc.18,12a : Tin Mừng) : Trước lưu đầy Babylon,
Luật chỉ buộc người Do Thái mỗi năm ăn chay một lần vào dịp lễ xá tội (x Lv.16,29).
Sau lưu đày, thêm một lần nữa để nhớ cảnh tàn phá Giêrusalem.Nhưng những người
Biệt phái tỏ ra đạo đức, mỗi tuần ăn chay thêm hai lần vào ngày thứ hai và thứ
năm, để đền bù những thiếu sót của dân đối với Lề Luật.
b-“Tôi nộp thuế thập phân về hết mọi
vật tôi mua” (Lc 18,12b : Tin Mừng): Luật này đầu tiên chỉ nhắm đến
những nguời sản xuất, dù lợi tức nhỏ như thì là, rau húng, bạc hà (x Mt 23,23).
Thuế này cũng nhắm trên cả lợi tức do súc vật mang lại (x Lv 27,31). Ông Biệt
phái này còn nộp thuế thập phân trên hết mọi vật ông mua sắm được, tức là ông
quảng đại làm hơn điều Luật dạy.
Nhưng Luật đâu có sức cứu độ con người, giá trị của Luật bất quá
chỉ cho ta nhận ra tội (x Rm 3,20), và nó còn giam giữ con người trong tội lỗi
(x Gl 3,22). Tại sao thế ? Bởi vì Luật luôn luôn nhắm dạy ta hai điều:
* Tiêu cực : Luật chỉ cho ta biết điều
xấu phải tránh.
* Tích cực : Luật dạy ta biết
điều tốt phải làm.
Ai vi phạm điều Luật cấm dĩ
nhiên là có tội. Nhưng ai biết điều tốt mà không làm thì cũng có tội (x Gc 4,17).
Trong thực tế, không ai có thể thi hành trọn vẹn điều tốt Luật dạy làm ; cũng
như không ai có thể tránh hết điều xấu Luật cho biết. Chính thánh Phaolô cũng
đã thú tội với tín hữu : “Tôi biết
rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự
thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn
thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19) ; Vì thế ông đã rên lên : “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi
khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: "Ơn của Thầy đã đủ cho
anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế
nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức
Kitô ở mãi trong tôi.” (2
Cr 12,7-10).
Thế mới hiểu lý do thánh
Phaolô nhắc lại lời Thánh vịnh (14,1-3): “Không ai công chính, không một ai
… hết thảy đều lầm lạc hư đốn cả lũ ! Ta biết rằng mọi điều Lề Luật nói là nói
cho kẻ ở trong Lề Luật, hầu mọi miệng lưỡi phải khóa lại, và tất cả thế gian phải tự nhận mình mắc án của Thiên
Chúa, bởi chưng do tự việc làm của Lề Luật, không xác phàm nào sẽ được giải án
tuyên công trước mặt Chúa” (Rm 3,10-20).
2.
Khinh bỉ và
kết án người khác :
Biệt phái đến nhà Chúa cầu
nguyện mà không nhìn lên Chúa để xin Chúa giúp mình cố gắng hơn, hầu điều chỉnh
cuộc đời nên hoàn thiện như Cha trên trời, mà Đức Giêsu đã đặt ra chỉ tiêu ấy (x
Mt 5,48). Bởi vì ông Biệt phái mới chỉ dâng Chúa 1/10 của cải có được, thua xa Chúa
cho loài người cả vũ trụ, cả Con Một Ngài (x Rm.8,32). Đúng là nhìn lên thì
không bằng ai, nhưng khi nhìn xuống ông không thấy ai bằng mình ! Do đó cách
giữ Luật của ông Biệt phái là để vênh váo với đời, đạp vào mặt người khác, như
ông nói : “Tôi không phải như những người khác : gian tham, bất lương, ngoại
tình, hay là như tên thu thuế kia!” (Lc 18,11 : Tin Mừng).
Đành rằng ông Biệt phái kết
án người thu thuế là kẻ gian tham,bất lương, ngoại tình, cũng không sai. Vì
-
Gian tham
: Người thu thuế lợi dụng trong chức vụ của mình để thu nhiều hơn số nhà nước
đã quy định. Dĩ nhiên là chỉ nộp đủ chỉ tiêu cho chính quyền, còn số dư tất yếu
là thủ riêng.
-
Bất lương
: Vì thu thuế của dân tộc mình mà nộp cho đế quốc Roma đang thống trị, đó là
hành động “rước voi về giày mồ”.
-
Ngoại tình
: Người Do Thái chỉ nương tựa vào danh Chúa, chứ không cậy vào chiến xa pháo mã
như dân ngoại (x Tv 20/19/,8). Còn người thu thuế thì dựa vào thế lực ngoại
bang để làm giàu, trái với niềm tin của dân tộc chỉ cậy vào Danh Thiên Chúa. Giới
thu thuế là những kẻ bất trung với Thiên Chúa, nên họ bị liệt vào loại “đĩ
thánh”.
Ông Biệt phái tự mãn vào việc giữ Lề Luật, nên ông đã
lên án người thu thuế là “gian tham, bất lương, ngoại tình” ; còn “Thiên
Chúa là Thần chí công, Người không tây vị, Người không nể mặt giàu để hại
nghèo” (Hc 35,12-13 : Bài đọc I). Do đó, Đức Giê-su lên tiếng xử công minh:
“Tôi nói cho các ông biết : người
này (thu thuế), khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn
người kia (Biệt phái) thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai
hạ mình xuống sẽ được tôn lên." (Lc.18,14 : Tin Mừng).
B. CHÚA THƯƠNG XÓT KẺ KHIÊM NHƯỜNG.
Người thu thuế đến Nhà Thờ nhìn lên, chẳng những anh thua xa Thiên
Chúa, mà anh còn thua cả người Biệt phái đứng trước mặt anh, nên anh quá xấu hổ : “Không dám ngước mắt
lên trời, anh đấm ngực mà thưa rằng : “Lạy Thiên Chúa, xin thuơng xót tôi là
đứa tội lỗi” (Lc.18,13 : Tin Mừng).
Thực ra, người ta có gì tốt mà không do lãnh nhận từ Trên ban cho
(x Ga 3, 27). Cho dù cả việc thi hành Lề Luật như ông Biệt phái trong dụ ngôn này.
Thế thì có gì mà phải lên mặt vênh váo (x 1Cr 4,7), có gì đáng kể mà dâng cho
Chúa, ngoại trừ ý thức mình chỉ là tội nhân, nên cầu khẩn lòng Chúa xót thương,
bởi vì “Chúa nghe lời người oan khổ kêu xin, nỗi hồn đắng cay là của lễ được
Chúa chấp nhận” (Hc 35,14-16 : Bài đọc I). Với niềm tin ấy người tội lỗi
dám kêu lên với Chúa : “Lạy Chúa con thờ, là Thiên Chúa cứu độ, xin tha chết
cho con, con sẽ tung hô Ngài công chính. Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có
thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận.
Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm
lòng tan nát giày vò, Chúa không khinh chê” (Tv 51/50,16.18-19).
Để xác quyết cụ thể và nhấn mạnh ơn cứu độ Chúa ban cho ta trước nhất và
quan trọng nhất là do lòng Chúa thương xót, thì chỉ có ông Luca đã cho ta thấy anh trộm có lòng
sám hối kêu cầu Chúa xót thương, được Ngài cho anh vào Thiên Đàng đầu tiên: “Hôm
nay,Ta cho ngươi ở trên Thiên Đàng làm một với Ta” (Lc 23,43). Tuy nhiên giáo
lý qua các Bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay, không chủ ý kết án mọi người Biệt
phái, cũng chẳng có ý tâng bốc hết mọi kẻ thu thuế. Nhưng muốn cho chúng ta bắt
chước đời sống của Biệt phái Phaolô : Trước kia ông rất tự mãn về cách sống đạo
của mình, cuồng nhiệt giữ Luật đến nỗi ông giết kẻ nào sống đạo không giống ông
(x Cv.9). Ông tệ hơn người Biệt phái đến Nhà Thờ trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng từ
ngày ông được Chúa chộp lấy (x Pl 3,12), mạc khải Con của Ngài cho ông, để ông
đi giảng Tin Mừng cho muôn dân (x Gl
1,15-16). Thì ông cảm nghiệm Chúa thương ông cách đặc biệt, Ngài bỏ trời đến
cứu ông là người thứ nhất trong các kẻ tội lỗi (x 1Tm 1,15), nên ông vênh vang
trong Chúa (x 1Cr 1,31) khoe với Giám
mục Timôthêu, học trò của mình rằng : “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến
chính nghĩa, tôi đã chạy đến cùng đường, nhưng chỉ có Chúa, Đấng phán xét chí
công xử cho tôi. Chính Ngài dành triều
thiên cho tôi (chứ không phải Lề Luật tôi giữ được), cả lúc tôi bị điệu ra tòa
chiến đấu một mình, vì mọi người đã bỏ mặc tôi,nhưng công phúc đó tôi
xin đừng ai kể đến, và chính lúc ấy tôi có vững được Đức Tin là vì có Chúa phù
hộ tôi, và ban sức mạnh cho tôi, Ngài cứu thoát tôi khỏi miệng sư tử, Chúa cho
tôi thoát khỏi hành vi ám muội, và chỉ có Ngài cứu tôi vào Nước Trời” (2Tm.4,
6-18 : Bài đọc II).
Vì sám hối là hành động Chúa ưa thích nhất nơi con người tội lỗi,
nên mỗi khi ta đến Nhà Thờ dâng Lễ cầu nguyện, ngay phút đầu ta đã phải thành
khẩn thú tội với Chúa và cùng anh chị em. Nếu ta đếm từ đầu đến cuối Lễ, thì có
14 lần nhắc đến sự bất xứng của mọi người trong cộng đoàn cũng như của chính
Chủ tế, để ta được Chuá thương xót biến tội ra ơn, như lời thánh Phaolô nói : “Ở đâu tội lỗi đã làn tràn,ở đó ân sủng càng
chứa chan biết mấy” (Rm 5,20). Ơn Chúa cần ban cho là ta biết yêu thương
chịu đựng cả tật xấu của đồng loại, ngõ hầu ta đi lùa những kẻ kiêu ngạo, tự
mãn về cho Chúa Giêsu, để Ngài chộp lấy, như đã chộp Biệt phái Phaolô.
Để minh chứng ở đâu tội lỗi
nhiều thì ân sủng chan chứa : chính những kẻ tội lỗi khi đã thuộc về Chúa thì
họ làm vinh hiển Chúa hơn. Đan cử
o Ông Phêrô
được làm Giáo hoàng tiên khởi, chỉ vì ông là người duy nhất
trong số 12 môn đệ tự xưng thú tội mình trước mặt Đức Giêsu : “Thưa
Thầy xin tránh xa con, vì con là kẻ có tội” (Lc 5,8). Thực vậy, trước khi
Đức Giêsu trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho ông, Ngài hỏi ông ba lần có yêu
Thầy không? Thì ông đã nhận ra rằng mình phải lấy tình yêu mà chuộc lại ba lần
ông đã chối Thầy, qua giọng nói trầm buồn : “Thầy thông hay mọi sự (Thầy đã biết con yếu đuối chối Thầy ba lần),
Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15t).
o Ông Phaolô được
danh : Thánh Tông Đồ dân ngoại, vì
ông là một trong số 13 môn đệ Đức Giêsu, tiền thân ông là kẻ vũ phu, bách hại
Hội Thánh Chúa (x Cv 9). Khi ông trở lại với Chúa, ông vẫn còn khiêm tốn thú
nhận sự yếu hèn của mình trước các tín hữu (x Rm 7,18-19 ; 2Cr 12,7-9).
o Bà Maria
Madalena người đem Tin Mừng Phục Sinh đầu tiên cho nhân loại. Bà là kẻ tội lỗi khét tiếng, vì bị bảy quỷ nhập
vào. Nhưng sau khi được Đức Giêsu trừ quỷ cho, suốt đời còn lại bà đã dâng tiền
của cho Đức Giêsu và các môn đệ trong việc truyền giáo (x Lc 8,2), bà là người
đầu tiên thấy Chúa Giêsu Phục Sinh, và bà cũng là người đầu tiên được Chúa Giêsu
sai đi loan Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho các môn đệ (x Ga 20,17-18).
Thực vậy, việc sám hối không
những bảo đảm được Chúa thương cứu độ, mà khi khiêm tốn sám hối thú nhận tội mình, thì đã được lời
ngay từ đời này :
-
Vợ Tổng thống Mỹ Bill
Clinton, năm 1994 cho xuất bản cuốn hồi ký của bà : bao nhiêu sóng gió chồng bà gây ra, bởi ông đã
dan díu với nhiều phụ nữ khi còn tại chức. Cuốn sách ấy bà thu về được
8.000.000 USD.
-
Thấy vợ Tổng thống Mỹ
kiếm lời dễ quá, cô Monica Luinki, người tình gây tai tiếng với ông Bill Clinton, cũng cho xuất bản cuốn hồi ký
của cô và thu được 6.000.000 Mỹ Kim.
-
Năm 2001, ông Bill
Clinton sau khi chấm dứt nhiệm kỳ làm Tổng thống, cũng cho ra đời cuốn hồi ký
của ông trong suốt hai nhiệm kỳ làm Tổng thống gây nhiều xì-căng-đan. Nhờ cuốn
sách ấy đã thu về cho ông 12.000.000 USD !
(Trích từ đài
Chân Lý Á Châu ngày 08/08/2001)
Nếu ba người trên đây chân thành sám hối như ông Phêrô và Phaolô, thì chắc chắn Chúa
ban ơn hơn lòng mong ước (x Ep 3,20), vì “Chúa là Đấng giàu lòng thương xót”
(Ep 2,4a).
THUỘC LÒNG.
Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm
lòng tan nát giày vò, Chúa không khinh chê! (Tv 50,19).
LM GIUSE ĐINH QUANG THỊNH