BÀI GIẢNG
BIẾT TẠ ƠN
THIÊN CHÚA !
Người
thi ơn không đòi phải được biết ơn, không đòi phải có đáp đền, nhưng người nhận
ơn không tỏ lòng biết ơn thì thua con chó người ta nuôi trong nhà !
Người
nhận ơn phải tỏ cử chỉ biết ơn nhiều hay ít vì tùy:
- Giá trị kinh tế : vật càng đắt, thì ơn càng nặng.
- Nhận quà tặng là cắt xén một phần sự sống nơi người
thi ơn. Ví dụ : tôi nhận của một bà cụ một chục trứng, là bà phải nhịn ăn, giảm
khỏe, bớt sống !
- Người nhận ơn phải biết rằng mình là người được chọn
trong muôn người. Vì tại sao người khác còn khổ hơn tôi mà họ không có người
giúp, còn tôi ?
Chính
thánh Phaolô khi được Chúa cứu độ, ông nói trong tâm tình tạ ơn: “Đức Kitô đến trần gian để cứu những người
tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ
nhất” (1Tm 1,15), “Chúa đã yêu tôi,
liều chết vì tôi” (Gl 2,20), chứ không phải chỉ vì Chúa thương mọi người mà
Ngài phải phục vụ đến hiến cả mạng sống!
Tuy
nhiên, Thiên Chúa không đòi người ta phải tỏ lòng biết ơn Ngài như người đời,
vì lời tạ ơn của ta không thêm gì cho Chúa. Nhưng phải tạ ơn theo ý Chúa dạy để
đem lại ơn cứu độ cho ta (x Kinh nguyện Thánh Thể : Tạ ơn). Nhất là mọi người
phải bắt chước ông Gióp, sau khi Chúa cho phép Satan cướp hết tài sản, con cái,
và sức khỏe của ông, thì ông vẫn tạ ơn : “Chúa
đã ban cho, Chúa lại lấy đi, xin chúc tụng danh Chúa” (G 1,21b) ; rồi ông
nói với vợ: “Chúng ta biết đón nhận điều
lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận hay sao” (G 2,10)?
Vì thế mà câu Tung Hô Tin Mừng hôm nay nhắc lại lời thánh Phaolô : “Anh em hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Đó là điều Chúa muốn trong Đức
Kitô Giêsu” (1Tx 5,8).
A. MỤC ĐÍCH CHÚA BAN ƠN.
Mục
đích Chúa ban ơn thể xác cho ta là để thăng tiến Đức Tin và nhất là để ta được
ơn cứu độ :
1/ Được ơn thể xác để thăng tiến Đức Tin :
Ông
Naaman nhờ làm theo lời ngôn sứ Êlysê, nên được khỏi cùi, từ đó Đức Tin của ông
thăng triển.
a. Chỉ nhận Giavê là Chúa : Ông Naaman là người ngọai giáo, sau khi được khỏi
cùi, ông tuyên xưng Đức Tin trước mặt mọi người : “Khắp cả và thiên hạ, không đâu có Thiên Chúa, trừ phi là ở Israel, và
cụ thể từ nay tôi không dâng thượng hiến và lễ tế cho thần linh nào khác ngoài Thiên
Chúa” ( 2 V.5,15.17b : Bài đọc I).
b. Nhận ra chỉ có đất Israel (Do Thái) là đất thánh : Vì ơn cứu độ phát xuất từ Do Thái (x Ga.4,22), hay
ơn cứu độ bung ra từ Giêrusalem đi khắp thế giới. Chân lý này tác giả Luca đã
diễn tả trong Tin Mừng hôm nay : “Đức
Giêsu lên Giêrusalem, Ngài đã ngang qua Samari và Galilê” (Lc 17,11: Tin
Mừng). Như thế là đi ngược tuyến đường sao? Vì theo Nhất Lãm, đời công khai
trong ba năm của Đức Giêsu chỉ có một lộ trình từ Galilê qua Samari tới Giêrusalem.
Nhưng ông Luca có ý viết đi ngược địa danh như vậy, vì ơn cứu độ của Chúa Giêsu
ban phát khởi đi từ Giêrusalem bung đi khắp thế giới ! Có nghĩa là ơn cứu độ
Chúa Giêsu Phục Sinh ban nhờ Hy Tế Thập Giá của Ngài, ơn này Chúa đổ vào Hội
Thánh là Giêrusalem mới, như một kho tàng, để từ kho tàng của Hội Thánh, ơn Chúa
được ban phát cho mọi người trên thế giới.
Ông Naaman đã nhận ra từ đất Israel, đất Giêrusalem
là nơi phát xuất ơn cứu độ, cho nên khi trở về Syria, quê ông sinh sống, ông
cũng chỉ muốn thờ phượng Chúa trên đất Israel, do đó ông xin ngôn sứ Êlysê ít
đất bằng hai con la chở về nhà để lập bàn thờ kính Đức Chúa (x 2V 5,17 : Bài
đọc I).
Đức Tin và niềm vui này, Naaman chứng tỏ ông không
còn là người ngoại, mà là người Israel
mới, vì người Israel
xác tín rằng : “Bài ca kính Chúa Trời,
làm sao ta hát nổi. Nơi đất khách quê người (ở Babylon
hay ở Syria).
Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi, thì tay gảy đàn thành tê bại”
(Tv.137/136, 4-5).
Nhìn vào thực tế ta thấy đau lòng vì có biết bao
người được ơn Chúa, thế mà sau đó có mấy người chỉ tôn thờ Thiên Chúa duy nhất
thể hiện bằng việc gia nhập Hội Thánh là đất Israel để dâng Lễ thờ phượng Chúa
và ca tụng Ngài !? Trái lại, nhận ơn Chúa rồi lại làm điều trái ý Chúa nhiều
hơn !
2. Được ơn thể xác phải
là dấu chỉ được Chúa ban ơn linh hồn :
Mục
đích Chúa Cha tặng ban Con Một Ngài cho thế gian, để loài người nhờ Đấng ấy mà được sống đời đời sung mãn hạnh phúc, vì “sự
sống đời đời là chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Đấng
Cha đã sai, Đức Giêsu Kitô”(Ga.17,
3).
Vì sự sống thể xác chỉ là sự sống biểu kiến ; nhận ra
Thiên Chúa độc nhất như ông Naaman mới là người sống bằng sự sống của Thiên
Chúa (x Ga 15,1) ; thế mà cả mười người đều được Đức Giêsu chữa lành khỏi cùi,
nhưng chỉ có một người nhận ra Đức Giêsu Kitô, Đấng Cha đã sai, nên đã trở lại
sụp lạy dưới chân Ngài, để tôn thờ Ngài là Chúa duy nhất. Người cùi Samari này vừa được ơn thân xác vừa được ơn Đức Tin, để cả hồn lẫn xác được sự
sống đời đời, như Lời Đức Giêsu nói với anh : “Đứng dậy về đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,19 : Tin
Mừng). Và như thế, chỉ có người ngoại giáo này mới đạt được mục đích Chúa ban
ơn (người Do Thái xưa không sụp lạy ai trừ Thiên Chúa, mà người cùi Samari này
đã làm).
B. LỜI TẠ ƠN CHÚA CHỈ ĐƯỢC HOÀN TẤT TRONG ĐỨC GIÊSU
KITÔ.
Tất
cả chín người Do Thái đều được Đức Giêsu chữa khỏi cùi, nên họ kéo nhau lên
Giêrusalem để trình diện với hàng tư tế và dâng Lễ tạ ơn theo Luật dạy (x
Lv.14, 2-20), không được Đức Giêsu chấm là có giá trị, nê Ngài hỏi người Samari : “Không phải là cả mười người được khỏi
cùi sao? Còn chín người kia đâu, sao không thấy họ trở lại mà chúc vinh Thiên
Chúa, trừ phi có người dị chủng này” (Lc.17,17-18 : Tin Mừng).
Đức
Giêsu hỏi thế là vì Ngài muốn tuyên bố nghi thức Phụng Vụ của Do Thái giáo đã
đến lúc phải chấm dứt, vì đó là hình bóng của Phụng Vụ Thiên Quốc, chỉ có Phụng
vụ “chính nhờ Chúa Giêsu,với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu,mọi chúc tụng và
vinh quang đều quy về Thiên Chúa là Cha, cùng với Chúa Thánh Thần” (Lời kết
Kinh nguyện Thánh Thể). Đây mới là cách phụng thờ được Thiên Chúa chấp nhận,
như Lời Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ Samari : “Này chị, hãy tin Ta, sẽ đến giờ không phải trên núi Garizim hay tại
Giêrusalem, mà các ngươi thờ phượng Cha ! Nhưng sẽ đến giờ – và là ngay bây giờ
– những kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần Khí và
sự thật, vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế” (Ga.4,
21.23).
“Thờ phượng Cha trong Thần Khí và sự thật”,
theo nội dung thư Do Thái, thánh Phaolô nói : “Phụng Vụ Chúa Giêsu thiết lập cho Hội Thánh, nhằm hoàn tất Phụng Vụ Do Thái
giáo”. Nói cách khác, khi Chúa Giêsu
hoàn tất Phụng Vụ Ngài thiết lập, thì Phụng Vụ Do Thái giáo phải cáo chung.
Vậy
người ta không được nói trống : Chúa ở khắp mọi nơi, thờ Chúa ở đâu cũng được,
đạo tại tâm, thờ Chúa trong lòng, Chúa biết là đủ rồi ! Mà phải xác tín rằng :
Ai thờ Chúa đích thực, họ phải :
- Thuộc về Hội Thánh khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy.
- Tôn thờ Thiên Chúa trong Phụng Vụ của Hội Thánh, nhất
là dâng Lễ (Bí tích Thánh Thể).
Như thế, khi người ta coi thuờng Phụng Vụ của Hội
Thánh : không lãnh nhận các Bí tích, không tham dự Kinh Phụng vụ , không muốn
nghe Lời Chúa, không rước Lễ, mà lại sốt sắng làm các việc đạo đức khác, thì
cùng lắm họ chỉ như chín người cùi lên đền thờ Giêrusalem trong Tin Mừng hôm
nay. Mà ta biết cả người phàm như Êlysê còn không muốn nhận vàng bạc, châu báu
của ông Naaman (x 2V.5,15-16 : Bài đọc I), huống hồ Thiên Chúa làm chủ muôn
vật, lại thèm khát báu vật người ta dâng ngoài Phụng Vụ của Hội Thánh sao ?
Tuy nhiên lời tạ ơn Chúa cũng không chỉ dừng lại
trong Nghi Thức Phụng Vụ, mà phải được thể hiện cả đời kẻ chịu ơn Chúa phải gắn
bó với Đức Kitô, như mẫu gương sống đạo của thánh Phaolô nói với Timôthêu: “Vì Tin Mừng, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang
cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích. Bởi
vậy, Tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích
cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Kitô
Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời, vì Ngài luôn trung tín không bao giờ
chối bỏ ta” (2Tm.2, 9-13 : Bài đọc II).
“Bị xiềng xích
vì Tin Mừng”. Đó là kẻ đã tin Chúa, thì nhất cử nhất động, từ tư tưởng, lời
nói, việc làm, phải do Tin Mừng cho phép, thúc đẩy.
Một người sống như thế thì khi dâng Lễ, đời họ chính là
của lễ kết hợp với lễ tế Đức Kitô Giêsu dâng lên Chúa Cha.
Mỗi ngày khi ta tham dự Thánh Lễ, nếu ta chưa sống
được như trên, thì ta hãy sám hối và xin Chúa trợ giúp thực hiện niềm tin, đi
vào mầu nhiệm ơn cứu độ. Vì “Chúa đã mạc
khải ơn cứu độ trước mặt chư dân” (Tv 98/97,2 : Đáp ca).
Thời chiến quốc, quan đại thần nước Triệu là Triệu
Giang Tử đi vào rừng núi săn bắn, ông đã giương tên bắn trúng con chó sói, nó
cong đuôi chạy trốn! Lúc ấy có vị Đồng Quách tiên sinh cưỡi lừa đi vào núi, ông thấy con chó sói bị thương đang tìm
nơi ẩn trốn, Đồng Quách vội lấy bao mở rộng miệng cho vào. Triệu Giang Tử và
đoàn tùy tùng có nhọc công tìm kiếm cũng không thấy.
Sau khi tai nạn qua khỏi, sói để lộ chân tướng của
nó, nó bảo Đồng Quách tiên sinh :
- Thả tôi ra khỏi bao, và cho tôi ăn.
Vừa ra khỏi bao, con sói liền nói :
- Tuy ông cứu mạng tôi, nhưng ba ngày nay tôi không
có gì bỏ vào bụng, nếu chiều nay tôi chết đói, hóa ra ông cứu tôi uổng công hay
sao ?! Tại sao ông không để tôi ăn thịt ông? Chỉ cần ông hy sinh một chút như
thế, tôi đâu có đòi hỏi gắt gao hơn? Vì ông đã thương thì thương cho trót.
Đồng Quách tiên sinh bình tĩnh suy nghĩ và nói :
- Dù mày có xé xác tao tan xương nát thịt, tao vẫn
không coi là mày có đạo lý, vả lại lương tâm mày cũng không yên ổn.
Sau khi thỏa thuận, hai bên tìm người để phân xử, tới
cây táo già cỗi, cây táo liền nói với Đồng Quách tiên sinh :
- Xưa kia tôi được người làm vườn trồng và chăm sóc,
một năm sau tôi ra hoa trái, năm nay tôi đã được 22 tuổi, tôi đã sống một đời
không ngừng hiến dâng trái cho bao nhiêu người, vậy mà nay khi tôi về già,
người làm vườn lại muốn đốn tôi làm củi! Ông xem đấy loài người của ông như thế
làm sao mà sói không ăn thịt ông được!
Thế là Đồng Quách lại đến hỏi ý kiến con trâu già, nó
trả lời :
- Lúc tôi còn trẻ, tôi đã cày bừa để nuôi sống người
nông dân, ông ta nói thương tôi, yêu tôi, vì tôi đã dầm sương dãi nắng suốt cả
đời, nay tôi về già, người nông dân lại muốn ăn thịt tôi. Tôi nghĩ sói có ăn
thịt ông, thì cũng chẳng có gì quá đáng!
Cuối cùng, hai bên đến hỏi ý kiến cụ già. Cụ lên
tiếng khiển trách sói :
- Đồ vong ơn bội nghĩa, khi về già sẽ gặp phải con
cái ngỗ nghịch, đó là quả báo đấy, mày biết không ?
Sói cãi lại :
- Nhưng vì ông này nhốt tôi vào bao đến nỗi tôi gần
bị chết ngộp.
Nghe thế, ông lão liền nói :
- Ta chẳng biết tin ai bây giờ, vậy mày hãy chui vào
bao để tao xem.
Thế là sói đồng ý chui vào bao, cụ già nói với Đồng
Quách tiên sinh :
- Ông có dao không ? Hãy đâm cho nó một nhát để chấm
dứt cuộc tranh luận vô ích này! Bởi vì lý luận như sói,như cây táo, như con
trâu, chỉ là cái lý của loài vật. Loài người nhờ có linh hồn không thể lý luận
như thế được! Người làm ơn tuy không đòi người nhận ơn phải đền ơn,nhưng người
nhận ơn phải tỏ ra biết ơn, để không thua con chó biết coi nhà cho chủ.
THUỘC LÒNG.
Dưới gầm trời này không có danh nào khác
ngoài danh Đức Giêsu Kitô đã được ban xuống cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ
vào Danh đó mà được cứu độ (Cv 4,12).
LM GIUSE ĐINH QUANG THỊNH