BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG: x Ga
15,16
Hall-Hall: Chúa nói:
Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi, sinh được hoa
trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hall.
TIN MỪNG: Mc 11, 11-26
11 Đang khi đám đông reo
hò vang dậy, Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn
xem mọi sự, và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai.12
Hôm sau, khi thầy trò rời khỏi Bê-ta-ni-a, thì Đức Giê-su cảm thấy đói.13
Trông thấy ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào
không. Nhưng khi lại gần, Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì
không phải là mùa vả.14 Người lên tiếng bảo cây vả: "Muôn đời
sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa! " Các môn đệ đã nghe Người nói thế.
15 Thầy trò đến Giê-ru-sa-lem. Đức
Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang mua bán trong Đền Thờ, lật
bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu.16
Người không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ.17 Người giảng
dạy và nói với họ: "Nào đã chẳng có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là
nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt
của bọn cướp! "18 Các thượng tế và kinh sư nghe thấy vậy, thì
tìm cách giết Đức Giê-su. Quả thế, họ sợ Người, vì cả đám đông đều rất ngạc
nhiên về lời giảng dạy của Người.19 Chiều đến, Đức Giê-su và các môn
đệ ra khỏi thành.
20 Sáng sớm, khi đi ngang cây vả, các ngài thấy
nó đã chết khô tận rễ.21 Ông Phê-rô sực nhớ lại, liền thưa Đức
Giê-su: "Kìa Thầy xem: cây vả Thầy rủa đã chết khô rồi! "22
Đức Giê-su nói với các ông: "Anh em hãy tin vào Thiên Chúa.23
Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: Dời chỗ đi, nhào xuống biển!,
mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ
được như ý.24 Vì thế, Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em
cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý.25 Khi
anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ
cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. (26
Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng
sẽ không tha lỗi cho anh em)."
BÀI GIẢNG
CÙNG CHÚA GIÊSU PHỤC VỤ MỚI LÀ ĐỨC ÁI
Là người ai cũng ý thức
rằng: ngày sinh vào đời không biết rồi mình sẽ có cái gì, trừ một điều chắn
chắn ai cũng có là sự chết, và không ai biết bao giờ thần chết đến. Đối với
người Ki-tô hữu lại càng phải ý thức giờ chết là lúc phải trả lẽ về những ân
lộc đã được nhận nơi Chúa, giống như ông chủ trao cho mỗi người mỗi việc, ai
làm sinh lợi và chu toàn bổn phận, mới được Chúa cứu độ (x Mt 25,14t ; Mc
13,34). Vì “Chúa đến xét xử trần gian”
(x Tv 96/95, 13: ĐC năm chẵn). Do đó, vị Giáo hoàng tiên khởi nhắc nhở mọi
người: “Thời tận cùng – ngày Chúa quang
lâm - đã đến rồi, anh em:
- Hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện
- Ta sẽ được Chúa ban muôn vàn ân huệ để ra đi phục vụ (1Pr 4, 7-13: Bài
đọc năm chẵn).
1/ SỐNG CHỪNG MỰC VÀ
TIẾT ĐỘ ĐỂ CÓ THỂ CẦU NGUYỆN.
“Sống chừng mực và tiết độ”
phải hiểu là trong đời ta có nhiều việc phải làm, nhưng đối với người Ki-tô hữu
thì việc cầu nguyện là quan trọng nhất, đặc biệt là Thánh Lễ, nên phải ưu tiên
dành giờ cho việc đó.
Ta biết Hy Tế Chúa
Giê-su thiết lập là trung tâm ơn cứu độ, là thực tại cứu độ dưới đất cũng như
trên trời (x Mt 6,10), Đức Giê-su đã phải mất mạng để dẹp bỏ mọi kiểu tế tự của
loài người, kể cả lễ tế do luật Mô-sê truyền cho dân Do Thái. Chính vì vậy mà “Đức Giê-su tiến vào Đền Thờ xua đuổi quân
buôn bán, lật nhào bàn của phường đổi bạc và ghế của kẻ bán bồ câu” (x Mc
11,15: Tin Mừng). Thực ra, những người buôn bán này họ không đưa vào Đền Thờ,
vì đã có khu dành riêng cho họ ở ngoài, nhưng tác giả Marco hữu ý ghi nhận Đức
Giê-su đuổi bọn buôn bán trong Đền Thờ với chủ đích nhấn mạnh lễ tế theo Do Thái
giáo bản chất chỉ là buôn bán, nơi trao đổi những lời “cầu nguyện giả bộ dài dòng để nuốt trửng tài sản của bà góa” (Mt
23,14). Vì thế Đức Giê-su dùng dây thừng bện thành roi mà đánh đuổi, và Ngài
lên tiếng trách họ: “Nhà Cha Ta sẽ là Nhà
cầu nguyện cho mọi dân tộc, sao các ngươi lại biến thành hang trộm cướp”
(Mc 11,17: Tin Mừng).
Nhà cầu nguyện của dân
Chúa đã biến thành hang trộm cướp, là vì bản chất việc tế tự theo Do Thái giáo
cũng chẳng hơn gì lối tế tự của dân ngoại: tất cả bản chất là trộm cắp, vì lễ
tế chỉ lợi cho hàng tư tế, mà linh hồn của những người đến dâng lễ vẫn bị satan
cướp mất ! Điều này ngôn sứ Daniel đã minh chứng: Ở Babylon có đền thờ kính
thần Bel, dân ngoại vào đó để dâng cho thần Bel mỗi khi có tế lễ là 12 giạ tinh
hoa bột mì, 40 con bò, 6 chum rượu. Dân ngoại thấy lễ tế nào dâng cũng được
thần Bel nhận, ai ngờ đâu Daniel đã lập kế để vua có thể khám phá ra chẳng có
thần nào nhận lễ vật của họ, vì chính vua đã thấy một đường hầm bí mật từ gầm
bàn thờ kính thần Bel dẫn về nhà vợ con các tư tế. Nhờ đường hầm này, mà sau
buổi tế tự, dân chúng ra về, thì vợ con các tư tế chuyển hết đồ cúng về nhà của
họ (x Dn 14,1-22).
Vì bản chất lễ tế của
Do Thái giáo cũng như thế đó, nên Đức Giê-su dẹp bọn buôn bán nơi Đền Thờ, là
dấu chỉ Ngài canh tân và làm hoàn hảo giá trị Phụng Vụ Do Thái, khi người ta vịn
vào cớ Ngài nói: “Cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga
2,19). Ngài nói thế chỉ có ý kết án kiểu tế tự buôn thần bán thánh trong Đền
Thờ phải dẹp bỏ, để Ngài thiết lập thể thức Tế Tự Mới, khởi đi từ lúc họ giết
Ngài, và sau ba ngày Ngài sống lại, rồi về Trời ngự bên hữu Chúa Cha, hằng
chuyển cầu cho những ai đến hiệp dâng Hy Tế với Ngài mà Hội Thánh cử hành theo
lệnh Ngài truyền (x 1Cr 11,23t)
Thực vậy, chính lúc họ
giết Ngài vào 12 giờ trưa Thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Giê-su mới chính là Con Chiên
được Chúa Cha ưng nhận thay cho con chiên của người Do Thái cũng vào giờ đó
người ta tế lễ Thiên Chúa tại đền thờ Giê-ru-sa-lem: Chiên trong Đền Thờ bị
thọc tiết và người ta không làm gẫy một xương nào của nó, để tưởng nhớ ơn Chúa
đã cho người Do Thái giết chiên ăn thịt trước khi xuất khỏi Ai Cập, và con
chiên ấy không được làm gẫy một xương nào (x Xh 12,46), thì khi Đức Giê-su bị
treo trên thập giá, họ cũng thọc tiết Ngài, và lính Roma thấy Ngài đã chết nên
không đập gẫy một xương nào của Ngài (x Ga 19,31-37). Đó là tiệc Vượt Qua Mới
Đức Giê-su thiết lập, ai đến tham dự thì được Ngài giúp vượt qua tội lỗi, vượt
qua sự chết mà vào cõi sống.
2/ TA SẼ ĐƯỢC CHÚA
BAN MUÔN VÀN ÂN HUỆ ĐỂ RA ĐI PHỤC VỤ
Ta biết chỉ nhờ Hy Tế
của Chúa Giê-su, ai đến hiệp thông thì được Ngài ban nhiều ơn trọng đại nhất.
Cụ thể :
a-Được Ngài cầu nguyện chođể ta được ăn theo muôn vàn ân sủng do công nghiệp của Chúa Giê-su trước
mặt Chúa Cha, như Ngài đã dạy ta cầu nguyện: “Điều gì các ngươi xin nhân danh Ta, Ta sẽ làm, ngõ hầu Cha được tôn
vinh nơi Con. Và nếu các ngươi xin gì với Ta, nhân danh Ta, Ta sẽ làm” (Ga
14,13-14). Đến nỗi Đức Giê-su hứa: “Mọi
điều các ngươi cầu xin hãy tin là đã được và các ngươi sẽ thấy thành sự”,
một khi ta biết tha thứ cho những người xúc phạm đến ta (x Mc 11,24-25: Tin
Mừng). Ta lấy danh Con Một Thiên Chúa mà cầu xin, thì đạt hiệu quả cao hơn thuở
xưa ông Mô-sê dựa vào danh các tổ phụ như Abraham, Isaac, Israel, để xin Chúa
tha tội cho dân đã bỏ Chúa mà thờ bò vàng (x Xh 32,13).
b-Được đồng hóa với Chúa
Giê-su Phục Sinh. Thánh Phao-lô nói: “Đấng
tác thánh và những kẻ được thánh hóa cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng
một sự sống với Ngài, vì thế Ngài không hổ thẹn gọi họ là anh em” (Dt
2,11.14 ; Ga 6,57 ; Gl 2,20). Do đó ta có chết cách nào cũng được sống lại vinh
hiển giống Thiên Chúa vào ngày cánh chung (x Ga 6,54 ; 1Ga 3,2).
c- Được trở nên công chính. Thánh Phao-lô nói: “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân
xác anh em có phải chết vì tội đã phạm,
Thánh Thần cũng làm cho anh em được sống,vì anh em đã được trở nên công
chính” (Rm 8,10). Vì “ai thuộc về
Chúa Ki-tô thì không còn vấn đề lên án nữa” (Rm 8,1). Bởi lẽ Bí tích Thánh
Thể là trung tâm các ơn, là nguồn thanh tẩy tâm hồn ta.
d-Được Chúa đồng công cộng
tác, biến mọi sự nên tốt đẹp(x Rm 8,28), nhất là nhờ
hiệp thông Thánh Thể, Chúa ở cùng ta, để ta được phục vụ trong Chúa, việc ấy
mới trở thành Đức Ái Ki-tô giáo, có giá trị cứu độ và tồn tại muôn đời (x Cv
5,39). Vì vậy Đức Giê-su nói: “Cây nho
chính là Ta, các ngươi là nhánh, ai lưu lại trong Ta và Ta trong kẻ ấy, thì nó
sinh nhiều quả, vì ngoài Ta các ngươi không thể làm gì được” (Ga 15,5).
Chân lý này đã được
diễn tả qua cây vả lớn có lá sum suê, Đức Giê-su đến tìm quả mà không có, nên
Ngài nói: “Muôn đời không ai ăn trái mày
nữa”. Vì lời nguyền rủa này sáng hôm sau các môn đệ thấy cây vả đã khô héo
từ rễ đế ngọn, dù đó không phải là mùa vả (x Mc 11,12-14.20-21: Tin Mừng).
Nếu cây vả biết nói,
thì nó có thể phàn nàn với Đức Giê-su: “Không
phải là mùa có trái, tại sao Ngài đến kiếm quả không có lại nguyền rủa tôi
?” Nhưng Đức Giê-su dùng hình ảnh cây vả này để nói với mọi người rằng: Nếu ta
tin Ngài là Chúa, hãy kết hợp với Ngài mỗi ngày trong Bí tích Thánh Thể, thì
mọi sinh hoạt của ta là trái trăng làm vinh hiển Chúa Cha (x Ga 15,8). Trái
lại, ai không kết hợp với Chúa Giê-su, thì mọi sinh hoạt của họ, dù là điều
tốt, cũng chỉ là hành động nhân bản của một sinh vật cao cấp, thì trước sau
cũng ra tro bụi! (x Cv 5,38).
Có được bốn được ân huệ
trên ta mới góp phần xây dựng Hội Thánh như lời thánh Phê-rô nói: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên
đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh
em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức
Giê-su Ki-tô” (1Pr 2,5). Được như thế mới thực là sống yêu và được tha thứ
tội lỗi. Vì “Đức ái phủ lấp muôn vàn tội
lỗi, và đã trở thành người quản lý giỏi giang về ân sủng muôn hình vạn trạng
của Thiên Chúa. Ai nói thì nói Lời Chúa, ai phục vụ thì hãy phục vụ do mãnh lực
Thiên Chúa ban, ngõ hầu trong mọi sự, Thiên Chúa được tôn vinh nhờ Đức Giê-su
Ki-tô”. Và việc phục vụ trong Chúa tăng thêm ân lộc để khi ta phục vụ mà
gặp đau khổ giống Chúa Giê-su, thì ta càng mừng vui hơn (1Pr 4,8.10-11.13: Bài đọc năm chẵn). Và như thế đã trở thành vĩ
nhân, được sách Huấn ca ca ngợi: “Giờ
đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua
các thế hệ.Có những người không còn ai nhớ nữa, họ qua đi như chẳng
bao giờ có, họ sinh ra mà như chẳng chào đời, con cháu của họ cũng thế thôi!
Nhưng các vị sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm
vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn
được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước;
nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời
tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ” (Hc 44, 1.9-13: Bài đọc năm
lẻ) .
Đây mới thực là những người
theo Chúa Giê-su, Ngài đã chọn gọi họ, như Lời Ngài nói: “Chính Thầy đã chọn anh em từ giữa thế gian, để anh em ra đi sinh được
hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15, 16: Tung Hô Tin Mừng). Và
đó là dân được Chúa mến chuộng (x Tv
50/49, 4a: ĐC năm lẻ).
THUỘC LÒNG
Ai có nói thì nói Lời Thiên Chúa, ai phục vụ thì phục
vụ bằng sức lực Chúa ban. Có thế trong mọi việc ta làm mới tôn vinh Thiên Chúa,
nhờ Đức Giê-su Ki-tô (1Pr 4, 11)
Lm Giuse ĐINH QUANG THỊNH