BÀI GIẢNG
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
MẸ MARIA TRONG MẦU NHIỆM NƯỚC THIÊN CHÚA
Mầu nhiệm
Thiên Chúa cứu độ loài người, được thực hiện vào “Ngày Thiên Chúa” ra tay. Ngôn
sứ Is 25,6-12 đã diễn tả mầu nhiệm Nước Thiên Chúa như một “bữa tiệc đầy cao lương rượu nồng, ai được
tham dự không còn tủi nhục, khóc lóc, vì tử thần đã bị đánh gục, và như thế
Chúa đã lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, cất khăn tang bao trùm mặt đất,
để mọi người đầy hân hoan vui sướng trong ơn Ngài cứu độ”.
Bữa
tiệc trọng đại ấy chính là tiệc cưới của Con Chiên (Chúa Giêsu), trong tiệc
cưới ấy cô dâu được mặc áo trúc bâu là công đức của các thánh (x Kh 19,7-8).
Tiệc ấy được khai diễn vào “ngày thứ ba”, sau khi Đức Giêsu tìm được người yêu
có tâm tư say mê Lời Chúa giống như ông Nathanael ngồi dưới gốc cây vả đọc Sách
Luật (x Ga 1,45-51 ; 2,1a : Tin Mừng).
Thực
ra “ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana”
đã trở thành dấu chỉ báo trước vào ngày thứ ba sau khi Đức Giêsu từ cõi chết
sống lại, Hội Thánh bắt đầu làm hiện tại hóa Hy Tế của Chúa Giêsu, tức là dâng
Lễ theo lệnh Ngài truyền (x 1Cr 11,23-27). Bởi vì trước Phục Sinh ba ngày, Đức
Giêsu là Ađam Mới đã “thiếp ngủ” trên thập giá, và từ cạnh sườn Ngài : Evà mới
là Hội Thánh được sinh ra. Chân lý đã được báo trước : “lúc ông Ađam ngủ, Thiên Chúa lấy phần thân thể từ cạnh sườn ông, tạo ra
cho ông người vợ, khi thức dậy, Ađam đã reo lên : “Đây là xương tôi, đây là
thịt tôi” (x St 2,21-23). Như thế, Hội Thánh được sinh ra bởi xương thịt
của Đức Giêsu hơn thuở xưa bà E-và được sinh ra bởi xương thịt Ađam (x St
2,23). Ta lại biết Hội Thánh cũng là con của Đức Maria, vì nơi đồi Sọ, Đức
Giêsu đã gọi Đức Maria bằng danh hiệu BÀ, nguyên ngữ Hy Lạp là Gune. Danh BÀ
được Đức Giêsu lập lại lời sách Sáng thế gọi “BÀ Evà là mẹ của chúng sinh” (x St 3,20), là Đức Giêsu hữu ý xác
nhận : BÀ Maria là Mẹ của các Kitô hữu. Vì thế Đức Giêsu nói với Đức Maria về
môn đệ của Ngài : “Thưa Bà (Gune), đây là
con của Bà”, rồi Ngài nói với môn đệ : “Này
là Mẹ con” (x Ga 19,26-27).
Nếu
chúng ta chú ý đến các chi tiết xảy ra ở tiệc cưới Cana, thì thấy được lặp lại
vào giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu :
1/
Vào ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana xứ Galilê (x Ga 2,1).
1’ Vào ngày thứ ba sau cuộc Tử Nạn, Đức Giêsu phục sinh,
rồi Ngài hẹn gặp 11 môn đệ ở xứ Galilê sai các ông đi ban Thánh Tẩy và truyền
giảng Lời để đưa nhân loại vào dự tiệc Hội Thánh (x Mt 28,16t), bắt nguồn từ
Thập Giá, có Rượu Mới là Giáo Lý Mới được Chúa Giêsu làm hoàn hảo (x Mt 5,17 ;
Mt 9,14-17). Vì từ Giao Ước trở thành Di Chúc bằng máu (x Dt 9,16).
2/
Nơi tiệc Cana, có Đức Giêsu, Mẹ Maria và các môn đệ cùng được mời tham dự (Ga
2,1b-2).
2’ Nơi đồi Sọ, lúc Đức Giêsu dâng lễ trên thập giá, có
Đức Maria, có môn đệ Gioan và vài phụ nữ đến “tham dự” (x Ga 19,25-26). Đây là
dấu báo trước bắt đầu Hội Thánh đi truyền giáo, có Đức Mẹ cùng cầu nguyện với
các môn đệ và một số phụ nữ, có cả anh em họ của Đức Giêsu (x Cv 1,13-14).
3/
Tiệc cưới thiếu rượu (x Ga 2,3a), thì đôi tân sẽ bị người ta kết án là bất
hạnh.
3’ Đức Giêsu trên thập giá kêu “Ta khát” (x Ga 19,28).
Ngài khao khát có người đến uống nước hằng sống Ngài ban qua Phụng Vụ Ngài
thiết lập. Vì ai uống nước Ngài ban thì đời đời không phải khát, bởi được sống
hạnh phúc dồi dào như Ngài (x Ga 4,14 ; 10,10).
4/
Đức Giêsu nói với Mẹ Maria : “Thưa Bà (Gune), giữa tôi và Bà có liên quan gì,
Giờ tôi chưa đến” (x Ga 2,4).
4’ Vào Giờ chết Đức Giêsu (x Ga 12,27), Ngài mới bộc lộ
liên quan giữa Ngài với Đức Maria : Bà (Gune) là Eva Mới, là Mẹ của Hội Thánh,
như Ngài đã trao ông Gioan cho Mẹ Maria : “Thưa Bà, này là con Bà” (x Ga
19,26-27).
5/
SÁU chum nước lã biến thành sáu chum rượu ngon (x Ga 2,6).
5’ Cả vũ trụ này đã được Thiên Chúa tạo dựng trong SÁU
ngày, tuy nó tốt đẹp thì cũng giá trị như nước lã. Nhưng nay ai biết nghe Lời
Chúa Giê su dạy và thực hành như lời Mẹ Maria dặn, thì Đức Giêsu biến công
trình Chúa đã tạo dựng trong SÁU ngày, nhất là con người được trở nên con Thiên
Chúa, gọi Chúa là Cha trong Chúa Giêsu,mà ngợi khen Thiên Chúa (x Rm 8,14t),
hơn người ta khen rượu ngon trong tiệc cưới Cana (x Ga 2,10).
6/
Nước biến thành rượu nho ngon hơn rượu cũ (x Ga 2, 9-10).
6’ Nước từ cạnh sườn Đức Giêsu đổ xuống, khơi nguồn nước
Bí tích Thánh Tẩy, ai tin và lãnh nhận, thì họ được tháp vào Chúa Giê-su là cây
nho thật (x Ga 15,1t), tạo nên vườn nho tốt có trái thật ngọt, hơn dân Do Thái
xưa Chúa đã chọn họ tưởng là thứ nho ngọt, hóa ra lại là nho chua loét! (x Is
5).
7/
Chủ tiệc nếm rượu mới khen rất ngon (x Ga 2,9-10), làm cho tiệc cưới hoàn toàn
tốt đẹp.
7’ Trên thập giá Đức Giêsu, Chủ Hy Tế nếm dấm rồi nói : “Mọi
sự đã hoàn tất” (x Ga 19,29-30).
Vậy
tiệc cưới Cana đã trở nên dấu chỉ Hội Thánh Chúa Kitô. Ta được sống trong Hội
Thánh nhờ có Mẹ Maria :
1/ MẸ MARIA
MUỐN TA SỐNG XỨNG DANH LÀ HIỀN THÊ CỦA CHÚA KITÔ.
Tiệc cưới Cana là dấu chỉ tiệc Cưới
Con Chiên, “Tân nương mặc áo trúc bâu, áo
nàng dệt bằng công đức của các Thánh” (Kh 19,7-8). Thế thì nhờ lãnh Bí tích
Thánh Tẩy, ta là Tân Nương của Tân Lang Giêsu (x 2Cr 11,2 ; Ga 3,29), ta hãy
hiệp thông với Mẹ Maria và các thánh, đó là áo trúc bâu để ta nên người hầu
việc Nước Thiên Chúa. Đã là người hầu, thì phải làm theo lời Mẹ dạy : “Giêsu bảo gì, cứ làm theo” (Ga 2,5), để
diễn tả bổn phận người Hiền Thê của Tân Lang Giêsu, là làm vinh hiển Cha trên
trời, như lời ngôn sứ Isaia đã nói : “Chẳng
ai còn réo tên ngươi: "Đồ bị ruồng bỏ! " Xứ sở ngươi hết bị tiếng là "Phận bạc duyên đơn." Nhưng ngươi
được gọi: "Ái khanh lòng Ta hỡi! " Xứ sở ngươi nức tiếng là
"Duyên thắm chỉ hồng." Vì
ngươi sẽ được Đức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở
ngươi.Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi
về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể,
ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,4-5 : Bài đọc I).
Sống như thế là ta đã mặc lấy Chúa
Kitô (x Gl 3,27), và cũng mặc lấy công đức của các Thánh nữa (x Kh 19,8). Vì “Chúa không cứu con người cách riêng rẽ thiếu
liên kết” (HCHT số 9). Đây là Mầu Nhiệm Các Thánh Cùng Thông Công.
2/ TA
CHỈ THỰC SỰ ĐƯỢC TẠO DỰNG THEO HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA (St 1,26-27) KHI BIẾT THI
HÀNH LỜI MẸ MARIA DẶN : “GIÊSU BẢO GÌ, CỨ
LÀM THEO” (Ga 2,5).
Như
chúng ta đã biết Phúc Âm Luca và Gioan chỉ ghi sáu lần Đức Maria nói :
-
Lần I : Lc 1,34 : Mẹ nói với Thiên
thần trong lúc truyền tin : “Việc đó xảy
đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”.
-
Lần II : Lc 1,38 : Mẹ lại nói với
Thiên thần : “Này tôi là tôi tới Chúa,
xin Chúa làm cho tôi điều Chúa nói”.
-
Lần III : Lc 1,46-55 : Mẹ dùng lời
Kinh Thánh dệt lại thành bài ca tụng
Thiên Chúa tại nhà bà chị họ Êlysabeth. (Lời cầu nguyện ngợi khen Chúa của Mẹ
dài nhất trong sáu lần Mẹ nói, và Mẹ đã dùng Lời Chúa đan kết lại. Noi gương
Mẹ, Hội Thánh dạy : “Cầu nguyện phải đi
đôi với việc đọc Kinh Thánh” – HCMK số 25).
-
Lần IV : Lc 2,48 : Mẹ trách Giêsu lúc
tìm thấy Con ở Đền Thờ : “Tại sao Con làm
thế, đây cha Con và mẹ đã đau khổ tìm Con !”
-
Lần V : Ga 2,3 : Mẹ trình bày nhu cầu
tiệc cưới thiếu rượu với Đức Giêsu : “Nhà
này hết rượu”.
-
Lần VI : Ga 2,5 : Mẹ nói với loài
người : “Giêsu bảo gì cứ làm theo!” (Tin Mừng)
Như vậy năm lần đầu Đức Maria nói
với Thiên thần và thưa với Chúa ; chỉ có một lần duy nhất, lần thứ sáu,lần cuối
cùng Mẹ nói với loài người : “Giêsu bảo
gì, cứ làm theo!”
Ta
biết khởi đầu cuộc tạo dựng vũ trụ,
Thiên Chúa nói sáu lần, vạn vật xuất hiện rất tốt đẹp. Dù ngày thứ sáu và lần
thứ sáu, lần cuối cùng Thiên Chúa phán: “Ta
hãy dựng nên loài người giống hình ảnh chúng ta” (St 1,26). Nhưng thực ra
lúc đó Ađam, Evà tổ tiên loài người, mới chỉ đẹp như các sinh vật (x 1Cr
15,45), số phận không hơn gì loài thú (x Gv 3,18-19). Nhưng vào thời Tân Ước,
ai làm theo lời duy nhất Mẹ Maria nói lần thứ sáu : “Giêsu bảo gì cứ làm theo” (Ga 2,5). Họ mới thực sự trở nên con
người tốt đẹp tuyệt vời như Thiên Chúa, đến nỗi được đồng hóa với Thiên Chúa về
nguồn gốc, về máu thịt, và cả về sự sống của Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện
(x Gl 2,20 ; Dt 2,11.14 ; Ga 6,57).
3/ TA PHẢI CẦN NHỜ MẸ MARIA DẠY
BIẾT CỘNG TÁC VỚI CHÚA GIÊSU, VÌ MẸ RẤT CÓ UY QUYỀN TRONG MẦU NHIỆM NƯỚC CHÚA.
a- Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Ngôi Hiệp(Công Đồng Êphêsô năm 431). Với uy
quyền của người Mẹ Thiên Chúa và Mẹ loài người, nên trong tiệc cưới Cana, Đức Maria làm nổi bật vai trò người Mẹ chăm sóc nhu
cầu của con cái. Cụ thể tiệc cưới thiếu rượu chưa có ai đến nhờ cậy Mẹ, mà Mẹ
đã nhìn thấy trước nhu cầu của con cái Mẹ. Thiếu rượu là một sự ô nhục đối với
đôi tân hôn, vì tiệc cưới kéo dài bảy ngày, mà mới ngày thứ ba đã thiếu rượu,
nên Mẹ phải trình bày nhu cầu ấy với Đức Giêsu, Con Mẹ : “Nhà này thiếu rượu” (Ga 2,3 : Tin Mừng).Với uy quyền của một người
Mẹ, lời Mẹ nói với Đức Giêsu không phải chỉ là lời đề nghị, mà còn là một mệnh
lệnh, giống như trong gia đình, mẹ nói với con : “Thau đồ này chưa giặt”, có nghĩa là mẹ ra lệnh cho con phải thi
hành ngay.
b- Đức Maria là Eva Mới, là Hiền Thê của Tân Lang Giêsu, Adam cuối cùng (x 1Cr 15,45), vì trong mầu
nhiệm Nước Thiên Chúa, Đức Maria còn được gọi là Hiền Thê của Thiên Chúa, thì
lời của Tân Nương nói với Tân Lang trở thành yêu sách trong yêu thương : “Chàng phải đoán ý Nàng để thi hành”,
giống như hai cô cậu đang sánh bước trên đường, nàng nói : “Anh kìa, cô kia mặc áo đỏ, em thích lắm”,
thì đương nhiên chàng phải hiểu rằng :
nàng đang đòi chàng phải mua áo đỏ !
c- Đức Maria là Bà Chúa (Maria tiếng DoThái là Miryam, bởi tiếng gốc Ả Rập
“Mri”, có nghĩa là “Được Yêu Mến”. Maria theo tiếng Aram, người Do Thái nói là “Mara”,
có nghĩa là “Chúa, Chủ”): Mẹ nói với những người giúp việc trong bữa tiệc : “Hãy đến cùng Giêsu, Ngài bảo gì cứ làm theo
!” (Ga 2,5), câu nói này Mẹ đã lập lại nguyên văn lời vua Pharaôn nói với những người đến Ai Cập xin ông bán lương thực
cho, vua lại bảo họ : “Hãy đến cùng
Giuse, ông ấy bảo gì cứ làm theo !” (St 41,55).
Ta
biết vào thời vua Pharaôn cả thế giới lâm nạn mất mùa suốt 7 năm, nên mọi người
phải tuốn đến Ai Cập mua lương thực, nhờ sự khôn ngoan của ông Giuse trong 7
năm được mùa, đã thu góp thóc lúa vào các kho dự trữ, vì ông biết trước khi
những năm mất mùa đến, mới có lương thực mà bán
cho dân, thu lời cho vua Pharaôn, và còn bảo đảm sự sống cho thế giới
khỏi bị chết đói. Lúc ấy, vai trò của vua Pharaôn được mọi người trên thế giới
phải suy tôn như một chúa tể có quyền ban sự sống cho mọi dân tộc, khi ông dủ
lòng thương ra lệnh bán thóc lúa (x St 41t); thế thì Đức Maria trong mầu nhiệm
Nước Thiên Chúa, thân thế và uy quyền của Mẹ là Bà Chúa còn hơn vua Pharaôn. Ai
đến cầu khẩn với Đức Maria, thì phải nghe và làm theo lời Mẹ dạy “Giêsu bảo gì,cứ làm theo” (Ga 2,5), để
có lương thực vươn đến sự sống đời đời, đến nỗi được đồng hóa với Thiên Chúa (x
Ga 6,57 ; Ga 15 ; Gl 2,20). Nếu không làm theo lời Mẹ dạy, thì phải đói khổ,
khốn nạn trong hỏa ngục, hơn những người chết đói vì mất mùa thời vua Pharaôn!
Tuy nhiên uy quyền của Mẹ Maria
không vượt quá quyền năng Lời Đức Chúa Trời, nên Mẹ bảo người ta phải làm theo
Đức Giêsu, dù lệnh ấy vô lý. Thực vậy, tiệc đã mãn, không ai dùng nước đựng
trong các chum đặt trước nhà để thanh tẩy trước khi nhập tiệc, mà người ta đang
cần rượu, để tiệc cưới không tàn niềm vui. Thế mà Đức Giêsu lại bảo người giúp
việc đổ nước đầy sáu chum, mỗi chum khoảng 40 lít. Nếu họ thấy vô lý không làm,
thì chắc chắn hôm đó sẽ không có rượu mới, dù Mẹ Maria uy quyền đến đâu cũng
phải bó tay !
Ta biết rằng vì tình yêu Chúa
Giêsu muốn mời gọi những ai đã thuộc về Ngài cộng tác với Ngài để cùng thực
hiện chương trình cứu độ loài người theo ý Cha trên trời.
Thực vậy, bất cứ ai đã được Chúa
cứu độ khởi đi từ Đức Maria, đều là những chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm
Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Khi Chúa Giêsu đã toàn thắng mọi sự dữ, kể cả thần
chết, Ngài đến thổi hơi: Trao ban Thánh Thần cho những người thuộc về Ngài (x
Ga 20,22). Thánh Thần đến phân bổ cho dân Chúa mỗi người một nhiệm vụ khác
nhau, để cùng xây dựng Hội Thánh cách vẹn toàn : Đức Maria thì sinh Chúa Giêsu
là Đầu của Hội Thánh ; còn các Kitô hữu thì sinh các chi thể làm cho Thân Mình
Mầu Nhiệm Đức Kitô Giêsu là Hội Thánh được đầy đủ các chi thể, để mỗi chi thể
hoạt động dưới ơn của Chúa Thánh Thần phân cho. Thánh Phaolô nói : “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách,
là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy,
người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí
ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc
sủng để chữa bệnh.Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên
tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng
lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy
nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ
theo ý của Người” (1Cr 12,7-11:
Bài đọc II). Vì “Thiên Chúa đã dùng Tin
Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta
là Đức Ki-tô Giê-su” (2Tx 2,14: Tung Hô Tin Mừng).
Vậy
trong đời sống đạo của ta, ai cũng cảm nghiệm tình yêu Chúa dần dần phai lạt,
có khi cạn kiệt, không mặn nồng như ngày mới theo đạo, nhất là khi phải lao
mình vào xã hội để tìm kiếm nhà, cơm, áo, thuốc men ! Nếu muốn làm cho tình yêu
Chúa trong tâm hồn ta lên ngôi, thú vị hơn rượu nồng, thì không có cách nào hơn
là thực hành Lời Chúa dạy, như Mẹ Maria đã dặn dò trong tiệc cưới.
d- Mẹ Maria, Đấng Đồng Công Cứu Chuộc : Tác giả Tin Mừng thứ tư đã minh
chứng chân lý này bằng cách ông chỉ cho độc giả thấy Mẹ Maria xuất hiện hai lần
trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu :
- Mở đầu cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu.
Mẹ có mặt với Đức Giêsu tại tiệc cưới Cana, và
ngay phút đầu trước khi Đức Giêsu khởi sự lên tiếng giảng dạy, Mẹ đã dặn mọi
người : “Giêsu bảo gì, cứ làm theo”
(Ga 2,5 : Tin Mừng).
- Cuối cuộc đời phục vụ của Đức Giêsu, khi Ngài bị treo trên thập giá, Mẹ Maria lại
xuất hiện đứng dưới chân thập giá, Đức Giêsu biết chương trình Chúa Cha trao
cho Ngài thực hiện cần phải có Mẹ cộng tác và tiếp tục, nên Đức Giê-su đã thưa
với Mẹ về những người Ngài tuyển chọn : “Thưa
Bà, này là con Bà” (Ga 19,27).
Cách
viết như trên, thánh Gioan đã diễn tả hình ảnh Mẹ Maria đang dang rộng hai tay
ôm lấy mọi sinh hoạt của Con mình, từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nếu trong lời
kinh chúng ta vẫn cầu nguyện “từ khởi sự cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn
Chúa”, thì Đức Giêsu qua cách viết của ông Gioan cũng nói “từ khởi sự cho đến
hoàn thành, tôi đều nhờ Mẹ Maria cộng tác”. Sự cộng tác của Mẹ Maria tham gia
vào công việc của Đức Giêsu như người vợ chia sẻ trách nhiệm với người chồng.
Như thế, sự liên quan trách nhiệm giữa Đức Giêsu và Mẹ
Maria mãi đến GIỜ Đức Giêsu bị treo trên thập giá, mới được mạc khải. Đó là lý
do Đức Giêsu đã nói với Mẹ Ngài trong tiệc cưới Cana
: “Giữa tôi và Bà có liên quan gì, vì GIỜ tôi chưa đến” (Ga 2,4 : Tin Mừng).
Đức
Giêsu là Thiên Chúa toàn năng mà còn cần đến Đức Maria cộng tác, huống chi
chúng ta là kẻ thấp hèn, vụng về, yếu đuối, bất tài, mù quáng, sao chúng ta
không cần đến Mẹ giúp đỡ giống Đức Giêsu.
Ta
có sống cậy nhờ nơi Mẹ Maria, Mẹ mới giúp ta cách thực hành Lời Chúa như Mẹ đã
có kinh nghiệm, có thế ta mới “kể cho
muôn dân nhận biết những kỳ công Thiên Chúa làm” (Tv 96/95,3 : Đáp ca).
Truyện kể :
Cậu Karol Wojtyla lên 7 tuổi, đứng
bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói :
“Con đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi
con, khi Chúa rước vú này về với Chúa, thì người Mẹ thật của con là Đức Maria
xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.”
Từ
ngày ấy, cậu tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là lý do
quan trọng mà ngày 18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng (Gioan
Phaolô II), đem lại nhiều lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi lãnh
vực.
Vậy
ta được làm con Chúa trong Hội Thánh, thì Đức Maria mới thực là Mẹ thật của ta.
Một chú bé nghèo khổ, quần áo tả
tơi, không biết chữ o tròn hay méo, lê đôi chân gầy đi đến một khu phố nghèo
nàn ở Ba-lê (Pháp). Chú ấy là tên là Gioan, lên 6 tuổi, đi tìm ông già Bouin,
sống bằng nghề viết thư mướn.
Chú bé vào nhà lễ phép cúi đầu chào ông cụ. Ông già hỏi :
-
Cháu
muốn gì?
Chú
vội thưa :
- Cháu muốn viết một bức thư.
Ông già ra giá ngay :
-
Đưa
đây 10 xu.
Chú
bé ngập ngừng rồi thưa lại :
-
Xin
lỗi cụ, cháu không có tiền.
Nói
xong chú thất thểu đi ra, ông già ngó theo thương hại, kêu chú trở lại :
-
Này,
mày không có đến 10 xu sao? Mày là con ai?
Chú
bé từ tốn đáp :
-
Dạ
cháu là con má cháu.
Ông
già nói :
- Vậy là ta hiểu rồi, cháu không có 10 xu, má
cháu cũng không có, vậy viết thư để xin chút cháo ăn đỡ đói phải không?
Chú
bé gật đầu. Ông già nói tiếp :
-
Được
rồi vào đây ông viết giúp cho.
Ông
Bou-in nghĩ thầm : mình có hy sinh một chút thời giờ, tốn ít mực, ít giấy thì
cũng chẳng ra nghèo. Ông liền lấy bút giấy ra viết : Ba-lê, ngày… tháng… năm…
Kính thưa ông.” Ông đọc lại cho chú bé nghe và bảo muốn gì thì nói để ông viết
tiếp. Chú bé ấp úng :
-
Dạ
không phải ông ạ!
Ông
già gạn hỏi :
-
Không
phải ông thì bà?
Chú
bé run run thưa lại :
-
Dạ
cũng không phải bà.
Ông
Bouin thấy bực mình nên cáu gắt nói :
-
Đã
không biết ai để gởi mà lại đòi viết thư.
Chú
bé lấy hết can đảm thưa lại :
-
Dạ,
cháu muốn viết thư cho Mẹ Maria .
Ông
già cười rồi nghiêm nghị nói :
- Mày chế nhạo lão gìa này hả? Cút ra khỏi nhà
tao ngay!
Chú
bé ngoan ngoãn bước ra khỏi cửa, ông nhìn theo thấy thương hại nên gọi chú trở
lại, quan sát kỹ chú bé một lúc, rồi ông hỏi tiếp :
-
Tên
cháu là gì?
- Dạ
tên cháu là Gioan.
-
Gioan
gì nữa ?
-
Dạ,
Gioan thôi ạ.
-
Nhưng
cháu muốn xin gì cùng Đức Mẹ?
-
Dạ
cháu muốn thưa với Ngài là má cháu đã ngủ từ 4 giờ chiều hôm qua, hai tay để
trên ngực, người lạnh ngắt, cháu không làm sao đánh thức má cháu dậy được!
Nghe
đến đó ông già hiểu ngay là mẹ em đã chết vì đói, ông rươm rướm nước mắt và
nghĩ thầm : mình chẳng thiếu của ăn, còn mẹ con chú này thì lại chết đói! Ông
già ôm ghì lấy chú bé vào lòng, và ôn tồn nói :
-
Từ
nay ông sẽ là ba của cháu.
Vậy một bức thư không được gởi đi,
những đã có hiệu quả là cụ già biết thương người, và Mẹ trên trời đã dùng cụ để
chăm sóc cậu bé Gioan.
THUỘC LÒNG.
Mẹ Maria chỉ nói với loài người một câu : “Chúa bảo gì, con cứ làm theo !” (Ga 2,5)
http://phaolomoi.net
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH