BÀI GIẢNG
Normal
0
false
false
false
MicrosoftInternetExplorer4
CHÚA LÀM NGƯỜI CHO CON NGƯỜI LÀM CHÚA
(thánh Gioan Kim Khẩu)
Ta
biết cao điểm của Mùa Vọng là tuần chín ngày trước lễ Giáng Sinh, tức là từ ngày
17 tháng 12. Hội Thánh ru ta vào niềm hy vọng : Chúng ta sẽ được thừa hưởng lời
chúc phúc của Thiên Chúa, khởi đi từ Đức Tin của ông Abraham. Ông là cha của
những người có lòng tin vào Thiên Chúa : “Nhờ
Đức Tin của ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ
được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Vì
ông trông đợi một thành trì có nền móng do Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Dt
11,8.10).
Thành
trì ông Abraham ngóng đợi đó chính là Hội Thánh Chúa Kitô. Thực vậy, chính Hội
Thánh được thừa hưởng lời chúc phúc của Thiên Chúa khởi đi từ Đức Tin và lòng Mến
của ông Abraham luôn luôn nhạy bén thực hành tiếng Chúa gọi : Ông sẵn sàng từ
bỏ quê hương ra đi đến miền đất mới mà không biết mình đi đâu… Một ngày kia vợ
chồng Abraham và Sara trong tuổi già cảm thấy gần đất xa trời, Chúa đã hứa cho
họ sinh một con trai tên là Isaac. Cậu bé là cái gậy của vợ chồng già bám vào
để bước đi trong niềm hân hoan vui sướng, thế mà như sét đánh ngang tai ông
Abraham : “Chúa ra lệnh cho ông đưa con
sát tế dâng cho Ngài, dù ai cũng biết lệnh độc ác trái lương tri ! Nhưng ông
Abraham không do dự, một mau mắn làm theo lệnh Chúa đã truyền. Cuối cùng Chúa
chỉ nhận Đức Tin và lòng yêu mến của ông, và bảo ông bắt con chiên sát tế thay
cho con ông, từ đó Chúa hứa cho dòng giống ông được đông như sao trời như cát
biển, dòng giống ông sẽ chiếm đoạt cửa thành quân địch, mọi dân thiên hạ sẽ lấy
dòng giống ông mà cầu phúc cho nhau, vì ông đã vâng nghe Lời Thiên Chúa” (x
St 22,1-19).
Lời
chúc phúc của Chúa cho dòng tộc Abraham để xây cho ông một thành trì vững chắc,
thắng mọi thù địch, khởi đi từ lời chúc phúc của ông Giacob là cháu đích tôn
của ông Abraham cho ông Giuđa để được thừa kế gia tài tinh thần và vật chất của
ông nội Abraham (x St 25,19t ; 49,8-10 : Bài đọc).
Chúng
ta tìm hiểu phúc lành Chúa hứa cho dòng tộc Abraham qua lời chúc phúc của ông
Giacob cho các con ông, và lời chúc phúc được thực hiện vào ngày Thiên Chúa
viếng thăm loài người.
I. TẠI SAO
ÔNG GIACOB LẠI CHÚC LÀNH CHO GIUĐA HƠN 11 NGƯỜI CON KIA ?
Ta
biết ông Giacob muốn cưới nàng Rakel, con gái thứ của cậu Laban, nhưng cậu bắt
cháu chăn chiên 7 năm, mới gả Rakel cho. Nhưng ông Giacob bị cậu gạt gẫm, trong
ngày cưới thay vì cô em thì lại là cô chị tên là Lêa ! Giacob cứ đòi cậu phải
gả cô em, cậu lại bắt cháu tiếp tục chăn chiên thêm 7 năm nữa, tức là sau 14
năm làm tôi nhà cậu mới lấy được cô Rakel làm vợ, và như vậy Giacob miễn cưỡng
có hai vợ (x St 29).
Cô
chị Lêa ăn ở với ông Giacob sinh được 4 người con, Giuđa là người con thứ tư. Bà Rakel vẫn chưa có con bị người chị
khinh dể, nên Rakel đưa nữ tỳ của mình cho ông Giacob ăn ở sinh được 2 người
con ; bà Lêa cũng không vừa, bà cũng đưa nữ tỳ sống với ông Giacob và sinh được
2 con, rồi bà Lêa lại sinh thêm 2 người con nữa. Sau đó Chúa mới cho bà Rakel
sinh 2 người con : con cả là Giuse, con thứ là Bengiamin. Như thế ông Giacob có
12 người con : 6 con do Lêa, người vợ không chính thức, 4 người con do hai nữ
tỳ, và 2 con do bà Rakel người vợ chính thức (x St 28.30.35,16-19).
12
người con này làm nên dòng giống Israel được Chúa chúc phúc, đây là tiền trưng
cho 12 môn đệ của Đức Giêsu làm nên Hội Thánh của Ngài là Israel mới. Từ dòng
giống này mới thực sự được hưởng trọn vẹn Lời Chúa chúc phúc cho giống nòi ông
Abraham khởi đi từ lời chúc phúc của ông Giacob cho Giuđa : “Con
sẽ được các anh em con ca tụng, tay con đặt trên ót các địch thù, anh em con
cùng cha với con sẽ sụp lạy con” (St 49,8 : Bài đọc). Lời chúc phúc của
ông Giacob làm chúng ta ngạc nhiên, vì đúng ra theo pháp luật của Do Thái, thì
ông Giacob phải chúc phúc cho Giuse là con trai trưởng của ông do bà vợ chính
thức, thế mà ta lại thấy ông Giacob chúc phúc cho chi họ Giuđa, dù Giuđa là con
thứ 4 của bà Lêa, vợ không chính thức.
Sở
dĩ ông Giacob chúc lành cho chi họ Giuđa
vì ông này có công bảo vệ Giuse : Ông đã ngăn cản anh em của ông không được
giết Giuse, ông bày mưu để bán Giuse cho người Ai Cập, hy vọng Giuse thoát
chết. Bởi vì các anh em của ông quyết định giết Giuse (x St 37,26-27). Sau này
ông Giuse đã trở nên vị cứu tinh, làm cho cả thế giới khỏi chết đói vì 7 năm
mất mùa, đặc biệt là cứu sống anh em ông, những kẻ có dã tâm muốn giết ông (x
St 40t).
Vậy ai ra tay cứu người của Thiên Chúa, người
ấy đáng được thừa hưởng phúc lành của Chúa, như Đức Giêsu đã chúc phúc :
-
Phúc cho người hiền
lành, họ được đất làm cơ nghiệp.
-
Phúc cho người đói khát
sự công chính, vì họ được no thỏa.
-
Phúc cho người biết
thương xót, vì họ sẽ được Chúa xót thương.
-
Phúc cho ai tác tạo hòa
bình,vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (x Mt 5,4.6.7.9).
II. CHÚA
GIÊSU CHÍNH LÀ ĐẤNG THỰC HIỆN LỜI CHÚA ĐÃ CHÚC PHÚC CHO DÒNG TỘC ABRAHAM XUỐNG
TỚI DÒNG TỘC ÔNG GIUĐA.
1/ Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua
David, chi họ Giuđa. Ngài thực hiện phúc lành Thiên Chúa đã hứa cứu độ loài
người.
Chúa
đã dùng miệng các ngôn sứ hứa cho nhà Israel một vị Vua – Đấng Mêsia – là
hiện thân của vua David. Đó là vị vua tài đức nhất trong các vua của Israel
(x 2Sm 7,12 ; Ed 37,24-35 ; Is 44,28).
Để
minh chứng Đức Giêsu thuộc dòng vua David đến thực hiện lời hứa cứu độ, ông Matthêu
mở đầu Tin Mừng viết về gia phả của Đức Giêsu : Ngài là Con vua David (x Mt
1,1: Tin Mừng), và kết thúc gia phả, ông khéo léo nhấn mạnh vai trò quan trọng
của vua David mới là Đức Giêsu : Ba lần ông nhắc đến tên David bằng cách chơi
chữ 14 đời : “Từ tổ phụ Abraham đến vua David
là 14 đời ; từ vua David đến thời lưu đày Babylon là 14 đời ; và từ thời lưu
đày Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời”.
14 đời là tổng số 3 phụ âm của tên David : DaWiD (D = 4 ; W = 6), như thế tên
của David viết bằng số là : 4a6i4 = 14 (x Mt 1,17 : Tin Mừng).
Vậy
những gì Chúa đã hứa cho chúng ta, không bao giờ Ngài quên thực hiện, như lời
Ngài đã nói : “Trời đất qua đi, nhưng Lời
tôi nói không bao giờ qua” (Mt 24,35).
2/ Đức Giêsu xóa bỏ giai cấp trong
nhân loại.
Người
Do Thái khinh dể phụ nữ, đến nỗi họ nghĩ phụ nữ là loài không có linh hồn, cho
nên truyền thống của Do Thái khi viết gia phả của ai, không bao giờ người ta
đưa tên phụ nữ vào danh sách đó. Thế mà ông Matthêu một người Do Thái, viết Tin
Mừng cho người Do Thái, khi ông đề cập đến gia phả của Đức Giêsu, thì ông đã xé
truyền thống Do Thái : tự đưa vào gia phả Đức Giêsu có tên 5 người phụ nữ : Bà
Thamar, bà Rahab, bà Rut, bà Bat Shêba (vợ Uria), và bà Maria, Mẹ Đức Giêsu (x
Mt 1,3.5.6.16). Năm bà có ý chỉ năm Châu, mang ý nghĩa ơn cứu độ không dừng lại
cho dân tộc Do Thái.
Vậy
sống tâm tình con cái Thiên Chúa, không ai được khinh dể người khác, thánh Phaolô
nói : “Trong Chúa không nam thì cũng
chẳng có nữ, không nữ thì cũng chẳng có nam” (1Cr 11,11). Vì “kẻ bé nhỏ” là
những người không được xã hội quan tâm, nhất là những cô nhi quả phụ, nhưng Đức
Giêsu dùng những người này đóng góp vào chương trình cứu độ loài người : Trẻ
con là mẫu cho người ta vào Thiên Đàng (x Mt 18,1-3) ; bà Maria Madalena bị bảy
quỷ ám đã được Đức Giêsu trừ cho, và bà đã trở thành người đầu tiên đem Tin
Mừng Phục Sinh cho loài người (x Ga 20,18) ; đặc biệt nhất là bà Maria đã sinh
Con Thiên Chúa để đem ơn cứu độ cho loài người (x Lc 1).
3/ Đức Giêsu đến cứu muôn dân, cả những
kẻ tội lỗi.
Người
Do Thái tự tôn và tự hào : Chúa chỉ cứu dân Do Thái, chính vì vậy mà ông Giona
không tuân lệnh Chúa đi giảng Lời cảnh cáo dân ngoại Ninivê, vì ông nghĩ như
những người Do Thái khác: Chúa không cứu dân ngoại, nên có đến giảng cho chúng
cũng là vô ích (x sách Giona). Thế mà trong gia phả của Đức Giêsu, tác giả Matthêu
lại đưa vào bốn người phụ nữ ngoại giáo : bà Thamar, bà Rahab, bà Rut, bà Bat
Shêba. Bốn bà chỉ dân khắp bốn phương trời.
Thực vậy, trong gia phả của Đức Giêsu, thánh sử Matthêu
làm nổi bật bốn người phụ nữ ngoại giáo tầm thường, nhưng họ có lòng kính sợ
Thiên Chúa :
-
Bà Thamar,chỉ muốn ông
Giuđa là bố chồng phải giữ Luật Do Thái, tức là người con cả của ông Giuđa lấy
bà Thamar đã chết, thì ông Giuđa phải bắt cậu em lấy người chị dâu. Nhưng ông
Giuđa dối gạt bà Thamar bày mưu tính kế cho Thamar về quê ngoại, biết âm mưu
đó, bà đã giả vờ làm cô gái điếm ăn ở với ông Giuđa để sinh con nối dòng cho
ông, và như vậy bà cũng được thuộc về dân của Chúa (x St 38).
-
Bà Rahab, là cô gái
điếm, nhưng đã có công bảo vệ người của Thiên Chúa, khi ba thám tử của Thiên
Chúa đến dò thám thành Giêricô, bà đã che mắt bọn lính thành để cho các thám tử
thoát mạng, vì bà tin rằng dân của Chúa sẽ chiến thắng thành Giêricô và bà xin
các thám tử cứu bà (x Gs 2.3.6).
-
Bà Rut, dù là người ngoại
giáo, chồng bà là người Do Thái đã chết, mẹ chồng không còn người con trai nào
để chắp nối với bà theo Luật. Trong lúc còn tuổi xuân, bà không về quê ngoại để
tái giá theo đề nghị của mẹ chồng, nhưng quyết ở lại đi mót lúa nuôi mẹ chồng,
vì bà chỉ ước ao được mẹ chồng coi là dân của mẹ (x sách Rut).
-
Bà Bat Shêba, vợ của
Uria, đã ăn ở bất chính với vua David, cũng chỉ vì áp lực của vua David mà bà
phải chiều theo (x 2Sm 11).
-
Đặc biệt nhất là các
vua trong gia phả của Đức Giêsu mà tác giả Matthêu ghi, đều có đời sống tồi tệ
về Đức Tin và luân lý : Họ đã thờ ngẫu tượng và sống gian ác với nhiều người,
trừ có hai ông: Salathiel và Zorobabel, là hai vua sau thời lưu đày có đời sống
gương mẫu mà thôi (x Mt 1,12-13 : Tin Mừng).
Vậy ơn cứu độ Chúa ban là ơn phổ quát dành cho hết
mọi loại người, vì chủ đích Đức Giêsu đến cứu kẻ có tội, như Ngài nói : “Tôi không đến để kêu gọi những người công
chính, mà là những kẻ tội lỗi” (Mt 9,13).
4/
Đức Giêsu đặc biệt cứu độ người có tấm lòng tuyệt đối tùng phục Lời Chúa như Mẹ
Maria (x Mt 1,16 : Tin Mừng).
Ta biết, Đức Mẹ được truyền tin sinh Con Thiên Chúa
trong một hoàn cảnh éo le, vì lúc ấy Mẹ đã đính hôn với ông Giuse, tuy chưa về
sống chung một nhà, nhưng đã là vợ chồng chính thức trước pháp luật. Theo sách
Ngụy kinh còn kể lại cho chúng ta : Cô Maria rất xinh đẹp và đầy nhân đức, cho
nên chàng trai nào cũng muốn lấy làm vợ, vì quá đông các chàng theo đuổi, nên
họ xin với vị thượng tế cầu nguyện cho họ, và chàng nào cũng mong mình trúng số
lấy được cô Maria. Vị thượng tế có sáng kiến, bảo các chàng trai mỗi người cầm
cây gậy và cùng đến cầu nguyện, gậy cậu nào nở bông, cậu ấy được lấy cô Maria.
Thật là may mắn cho Giuse, gậy của ông đã nở hoa huệ. Cũng vì lý do đó mà hôm
nay các tượng thánh Giuse, người ta thấy ngài cầm bông huệ, điều ấy xác nhận
ngài là chồng của Đức Maria đã được Thiên Chúa se định. Thế mà khi Thiên thần báo
tin cho Đức Maria thụ thai, thì Thiên thần lại nói Mẹ Maria là một Trinh Nữ, có
nghĩa là Maria không trở thành vợ của ông Giuse như những người phụ nữ khác có
đời sống lứa đôi! Điều ấy có trái với định mệnh của ông Giuse và Maria lấy nhau
hay không? Vì gậy của ông đã được Chúa cho nở bông? Và như vậy Mẹ cũng đã xác
định rằng : mình là vợ chính thức của Giuse, vì đã được tiền định, bây giờ
không ăn ở với ông Giuse mà lại mang bầu, thì biết ăn nói thế nào với xã hội,
và liệu có tâm sự với Giuse, thì ông có tin hay không? Chính ông Giuse khi biết
Maria có thai, ông “đã định tâm lìa bỏ
bà cách kín đáo” (x Mt 1,18t).
Mẹ Maria vâng nghe Lời Chúa để sinh Con Đấng Tối Cao
vào đời, đối với Mẹ là một đau khổ hơn là vinh dự, bởi vì Mẹ phải đối phó với
bao nghịch cảnh Luật xã hội thời bấy giờ.
Đặc biệt hơn nữa là khi Mẹ đứng dưới chân thập giá
Đức Giêsu, tất cả Lời Thiên Chúa hứa trong ngày Truyền Tin : “Con Bà là Con Đấng Tối Cao, Ngài sẽ làm Vua,
triều đại của Ngài vô cùng tận” (Lc 1,32-33), và “Bà là người có phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42) xuyên thấu tim
Mẹ khi Mẹ đứng nhìn Con bị treo trên thập giá (x Ga 19,25). Cứ như suy nghĩ của
người đời thì Thiên Chúa đã dối gạt Mẹ, thế mà Mẹ vẫn vững tin vào quyền năng
và tình thương của Thiên Chúa, Mẹ đứng nhìn
Con như một dũng tướng giữa chiến trường thiện ác, Mẹ đứng lèo lái con thuyền
Hội Thánh đang gặp sóng gió của niềm tin kinh hoàng nhất! Xưa Chúa dạy ông Noe
đóng tầu mà không hướng dẫn ông làm bánh lái (x St 6-7), vì tầu Noe chính là
Hội Thánh, Đức Maria mới là bánh lái Chúa lắp vào để lèo lái con tầu Giáo Hội
cập bến an toàn. Bởi thế Mẹ Maria là mẫu của những người được Thiên Chúa cứu
độ, Mẹ là hình ảnh Hội Thánh viên mãn trong ngày cánh chung.
Vậy nhờ Con Thiên Chúa làm người,Ngài đến thực hiện
lời Chúa hứa cứu loài người khỏi tay ác thần, khỏi Satan (x St 3,15), và ban
muôn phúc cho những ai sống Đức Tin bắt nguồn từ tổ phụ Abraham, mà trong gia
phả Đức Giêsu, tác giả Matthêu đã ghi nhận, để Ngài làm cho chúng ta trở thành
cùng một xương thịt, cùng một sự sống, cùng vinh hiển với Thiên Chúa toàn năng,
toàn thiện (x Dt 2,11 ; Ga 6,57 ; Gl 2,20 ; 2Tm 2,10). Nên chúng ta phải cất
lời tuyên xưng Đức Tin và cầu nguyện : “Lạy Ngôi Lời khôn ngoan của Đấng Tối Cao, Ngài
an bài mọi sự, mạnh mẽ nhưng dịu dàng. Xin đến mà chỉ dạy đường khôn ngoan cho
chúng con” (Tung Hô Tin Mừng), để chúng con cất cao lời nói cho thế giới :
“Triều đại Người, đua nở hoa công lý và
thái bình thịnh trị đến muôn đời” (Tv 72/71,7 : Đáp ca).
THUỘC LÒNG
Thiên Chúa dùng quyền năng đang hoạt động
nơi chúng ta mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới (Ep
3,20).
http://phaolomoi.net
Lm GIUSE
ĐINH QUANG THỊNH