BÀI GIẢNG
MỌI SỰ CHỈ HOÀN HẢO
NHỜ VỚI TRONG CHÚA GIÊSU
Sự
hoàn hảo trong Chúa Giê-su chính là con người được trở nên công chính. Thánh
Phao-lô nói: “Người ta chỉ được trở nên
công chính do lòng tin vào Chúa Ki-tô, chứ không phải do việc làm của Luật dạy”
(Gl 2,16). Tin vào Chúa Giê-su chính là tin Ngài có quyền bổ túc Lề Luật
cho hoàn hảo, đồng thời phải kết hợp nên một với Ngài khởi đi từ Bí tích Thánh
Tẩy. Hai điều này giới Biệt phái không chấp nhận, bởi vì họ tin rằng chỉ cần
giữ Luật Mô-sê là đủ nên công chính. Vì thế Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Nếu chúng con không công chính hơn Luật sĩ
và Biệt phải, thì chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20: Tin Mừng). Mà ai “có Chúa Giê-su thì sống, kẻ không có Chúa
Giê-su là chết” (1Ga 5,12).
Tác
giả sách Khôn ngoan nói: “Thiên Chúa
không làm ra sự chết, Ngài không vui gì khi sinh linh bị hư diệt” (Kn
1,13). Nguyên tổ loài người là Adam, Eva đã gạt Lời Chúa đi mà làm theo ý mình,
hậu quả thần chết tức khắc nhảy vào nhà họ chịt cổ hết thảy mọi người! Thế là
dòng giống họ bị diệt vong (x St 3). Với trải nghiệm ấy, tác giả sách Huấn ca
cảnh giác hết thảy mọi người: “Nếu con
muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người. Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì,
hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ
được cái đó” (Hc 15,15-17: Bài đọc I).
Chúa
mạc khải như thế, để vào thời Tân Ước mọi người lại càng cần phải xác tín rằng
:
-
Chọn giữ Luật Chúa Giê-su đã làm hoàn hảo thì
sống (x Gl 3,24).
-
Chọn lề luật của loài người, kể cả Luật Chúa đã
ban cho dân Do Thái qua ông Mô-sê, là chết (x Gl 3,22-23).
Thánh
Phao-lô khuyên “các chủ chăn trong Hội
Thánh có sứ mệnh loan báo Luật do Chúa Giê-su đã làm hoàn hảo, đó là sự khôn
ngoan, không phải khôn theo thế gian, kể cả các thủ lãnh trên đời. Vì các thủ
lãnh thế gian đã mù quáng không biết sự khôn ngoan do Chúa Giê-su đưa đến, nên chúng đã đóng đinh Ngài vào thập giá! Lẽ
ra chúng phải biết rằng: Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta
từ trước muôn đời, nay được mạc khải cho những ai yêu mến Con của Ngài là Đức
Giê-su” (x 1Cr 2,6-10: Bài đọc II), và trong Thần Khí, “Ngài là bậc Thầy duy nhất dạy loài người”
(x Mt 23,10).
Tin
Mừng được đọc trong Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su chính là Đấng Khôn Ngoan, dạy
ta phải lưu ý thi hành ba điều:
-
Phải triệt để tôn trọng từng chữ trong Lời Chúa,
thậm chí cả đến dấu chấm, dấu phẩy cũng không bỏ sót.
-
Phải tin yêu, tận tâm giữ Luật Chúa đến từng chi
tiết nhỏ, mới là người Ki-tô hữu cao cả.
-
Chỉ nhờ Chúa Giê-su Phục Sinh mới làm hoàn hảo
giá trị Luật, sinh ơn cứu độ cho loài người.
I. PHẢI TRIỆT ĐỂ TÔN TRỌNG TỪNG CHỮ TRONG LỜI CHÚA, THẬM
CHÍ CẢ ĐẾN DẤU CHẤM, DẤU PHẨY CŨNG KHÔNG BỎ SÓT.
Chúa
nói: “Thầy bảo thật anh em, trước khi
trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho
đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5,18: Tin Mừng).
Như
thế, muốn hiểu Lời Chúa chính xác, đầy đủ, ta phải để ý đọc từng chữ cho đúng,
đừng thêm bớt một lời nào trong Kinh Thánh.
Đan
cử :
+ Có người không nhớ rõ Kinh Thánh, mà dám nói: “Ai không làm thì đừng ăn”, trong khi đó
thánh Phao-lô dạy: “Ai không muốn làm
đừng ăn” (2Tx 3,10). Muốn thì quan trọng hơn là làm,
bởi vì nếu làm mà không muốn thì làm thiếu chu đáo và trở nên gánh nặng cho
người khác, như thế chữ muốn rất quan trọng, mà bỏ đi để nói “không làm đừng
ăn”, thì rất là ác, vì đó là cách kết án người già yếu bệnh tật!
+ Chúa ra lệnh cho Adam, Eva không được ăn
trái cấm (x St 2,17). Thế mà bà Eva lại nói với satan rằng: Chúa bảo không được
rờ đến
cây cấm! (St 3,3) Ma quỷ nghe bà Eva nói không chính xác Lời Chúa, cho nên nó
tấn công nhằm tiêu diệt cả giống nòi ! Trong thực tế có nhiều người Công Giáo
rất mù mờ về giáo lý, điều gì cũng hiểu đại khái, thế mà cứ vênh vang không ai
thông thạo giáo lý bằng mình. Loại người này rất dễ bỏ đạo hoặc phạm nhiều tội
ác!
+ Có nhiều người ưa trích dẫn câu nói: “Sợi tóc trên đầu rụng xuống không ngoài
thánh ý Chúa”, mà trong toàn bộ Kinh Thánh
không hề có câu đó. Nếu nói như thế là gán cho Chúa đẩy ta vào con đường
tội lỗi! Trong khi đó Đức Giê-su dạy: “Sợi
tóc trên đầu chúng con đã được cộng sổ rồi”
(Mt 10,30): hoặc là: “Một sợi tóc
chúng con không bị rơi mất” (Lc 21,18 : 2Sm 14,11).
Vậy
muốn hiểu một câu trong Kinh Thánh, ta còn cần phải đặt câu ấy vào trong bối
cảnh câu chuyện. Ví dụ: “Sợi tóc được
cộng”
hoặc “sợi tóc không bị rơi mất”,
là Đức Giê-su đang nói với các môn đệ, khi sai các ông đi loan báo Tin Mừng,
chắc chắn sẽ bị bách hại, thì đừng sợ, vì Ngài sẽ bảo toàn mạng sống, đến nỗi
không mất một sợi tóc, là phần thân thể chẳng ai quan tâm, như chuyện ba chú bé
Do Thái không chịu thờ ngẫu tượng, bị vua quăng vào lò lửa, nhưng tóc của các
chú không sợi nào bị lửa tèm! (x Dn 3).
Ngoài ra ta còn phải
tôn trọng ngữ pháp, dù một chấm một phết, Đức Giê-su dạy cũng không được bỏ (x
Mt 5,18: Tin Mừng).
Mà
thực, khi ta bỏ hoặc hoán chuyển dấu trong một câu, thì lắm khi câu đó đổi
ngược lại ý người muốn nói. Ví dụ: Chính quyền ra lệnh cho dân: “Trâu bò để
cày, không được giết”: thì dân lại nói: “Trâu bò để cày không được, giết!”.
Hoặc “Gia đình hai con, vợ chồng hạnh phúc”, thì người ta lại đọc: “Gia đình
hai con vợ, chồng hạnh phúc !” Rõ ràng chỉ thay đổi dấu chấm, hoặc dấu phẩy, ý
nghĩa câu văn hoàn toàn nghịch lại.
II. PHẢI TIN YÊU, TẬN TÂM GIỮ LUẬT CHÚA ĐẾN TỪNG CHI
TIẾT NHỎ, MỚI LÀ NGƯỜI KI-TÔ HỮU CAO CẢ
Đức
Giê-su dạy: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một
trong những điều răn nhỏ nhất, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị liệt là
nhỏ nhất trong Nước Trời. Vậy còn kẻ nào làm và dạy, thì sẽ được tôn lên làm
lớn trong Nước Trời” (Mt 5, 19: Tin Mừng).
Thực
vậy, Luật Hội Thánh không buộc giáo dân dự Lễ ngày thường, cũng không buộc ai
đã lãnh Bí tích Khai Tâm hay Hôn Phối còn phải tiếp tục đi học giáo lý. Nhưng
nếu tất cả mọi người Công Giáo dự Lễ hằng ngày, chuyên cần học giáo lý, thì quả
thực Hội Thánh phát triển rất nhanh, và người tín hữu như thế đúng là ánh sáng là
muối cho đời (x Mt 5,13-16) vì họ muốn “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn
lành” (Mt 5,48).
Như
thế ai yêu mến và hết lòng tuân giữ Luật Chúa, không phân biệt Luật trọng, Luật
hèn, cũng như không phân biệt tội trọng, tội nhẹ, thì người ấy được Chúa gìn
giữ, như Lời Kinh Thánh nói: “Then cửa
nhà ngươi Chúa làm cho thêm chắc, con cái trong thành Người giáng phúc thi ân”
(Tv 148/147,13).
Vậy
thực là “hạnh phúc thay người noi theo
Luật pháp Chúa Trời” (Tv 119/118,1b: Đáp ca)
III. CHỈ NHỜ CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH MỚI LÀM HOÀN HẢO GIÁ
TRỊ LUẬT, SINH ƠN CỨU ĐỘ CHO LOÀI NGƯỜI.
Đức
Giê-su đã khẳng định: “Đừng tưởng Ta đến
để bãi bỏ Lề Luật hay các ngôn sứ: Ta đến không phải để bãi bỏ, mà là để làm
trọn” (Mt 5,17: Tin Mừng).
Thực
vậy, Đức Giê-su đến làm hoàn hảo Luật đã
ban qua Mô-sê :
· ĐIỀU RĂN THỨ 5 - Chúa dạy: Chớ
giết người.
Ông
Mô-sê đã cắt nghĩa Luật này: “Chỉ khi nào
giết người mới bị can án”. Nhưng Đức Giê-su lại dạy: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ
ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân
phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật
trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì
hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở
lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang
trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà,
quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho
anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (x
Mt 5,22-26: Tin Mừng).
Vậy
Luật Mô-sê chỉ kết án ai đã giết người, còn Đức Giê-su thì dạy phải loại trừ
nguyên nhân đưa đến giết người: “Không
được tức giận ai, không được khinh dể anh em mình mà gọi họ là đồ ngốc, cũng
không được chửi anh em mình là phản đạo”. Đức Giê-su cấm ba điều như thế là
Ngài ngầm kết án các đầu mục Do Thái đã vi phạm cả ba điều ấy, nên họ đã quyết
định giết Ngài! Họ mới chính là những kẻ sẽ bị đưa ra tòa án chịu xét xử! Bởi
đó Ngài nói: “Khi sắp dâng lễ vật
trước bàn thờ, mà sực nhớ có chuyện bất bình với anh em, thì hãy để của lễ lại
bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã” (x Mt 5,23), và làm
cho chúng ta phải hiểu rằng: Khi người ta treo Ngài lên thập giá trong ngày Thứ
Sáu Tuần Thánh, đó là của lễ Ngài dâng lên Chúa Cha. Nhưng cũng chính lúc đó là
cao điểm bất bình của bao nhiêu người đòi giết Ngài, thế sao Ngài không xuống
khỏi thập giá mà đi làm hòa với họ ?!
Đó
chính vì Chúa
Giê-su muốn canh tân và làm hoàn hảo Do Thái giáo. Cụ
thể Luật Phụng Vụ ngày thứ 7, người Do Thái rất bất mãn với Đức Giê-su, vì đó
là Luật Thánh, cấm không được làm trong ngày Hưu Lễ, thế mà theo Tin Mừng Nhất
lãm, đã ba lần (trong tổng số 33 phép lạ trong bốn Tin Mừng) Đức Giê-su cố ý
chữa lành bệnh cho người ta vào ngày Hưu Lễ:
-
Ngài chữa lành cho người có tay khô bại (x Mt
12,9).
-
Ngài chữa lành cho bà bị còng lưng được đứng
thẳng (x Lc 13,10).
-
Ngài chữa lành cho người mắc bệnh phù thũng (x
Lc 14,1).
Đức
Giê-su có ý làm việc vào ngày Hưu lễ, vì Luật này thuộc Luật Phụng Vụ Do-thái,
mà giá trị Luật Do Thái giáo chỉ được hoàn hảo nhờ mầu nhiệm Tử Nạn và Phục
Sinh của Đức Giê-su mà thôi. Vì thế dựa vào Hiến Chế Mạc Khải số 16 Hội Thánh
nói: “Giá trị Cựu Ước được thể hiện trong
Tân Ước : giá trị Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu Ước”.
Cụ
thể là Luật Phụng Vụ Do Thái dâng chiên cừu bò lừa, dâng của vật chất thì vào thời Tân Ước, Chúa Giê-su mới chính
là Con Chiên Thiên Chúa được Chúa Cha ưng nhận, thay thế cho con chiên trong
Phụng Vụ Do Thái giáo (x Thư Do Thái).
Sở dĩ Đức Giê-su có
quyền thay đổi và bổ túc Lề Luật cho hoàn hảo, vì Ngài là Chủ Lề Luật (x
Mt 12,8). Thánh Gia-cô-bê nói: “Chỉ có
một Đấng lập Luật và là Thẩm Phán, Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt”
(Gc 4,12a).
Vậy
sự bất bình làm ngăn trở ta dâng Lễ, chính là sự bất công ta đã gây ra cho
người khác, hoặc vì ghen tỵ không muốn ai hơn mình, nên tìm mưu kế hạ đối phương, hoặc do tính
tham lam, ích kỷ, chỉ lo vơ vét cho mình, thiếu bổn phận đối với đồng
loại, nhất là người dưới quyền. Lời Chúa trong sách Huấn ca dạy rằng: Con đừng đến trước mặt Chúa với bàn tay
không, một hãy dâng Chúa tấm lòng hân hoan, quảng đại: lễ vật con dâng là cẩn
thủ tuân giữ luật Chúa, bánh con dâng là cách con đối xử nhân hậu với tha nhân,
của lễ tạ ơn là việc con chia sẻ, dâng lễ đền tội là con hãy tránh xa gian ác,
bất công! (x Hc 35,1-10).
Người
ta bất bình với Đức Giê-su đã đi đến giết Ngài, chỉ vì Ngài sống Lời trong sách
Huấn ca dạy như trên, vậy nên cho dù lúc Ngài dâng Lễ là đỉnh cao nhiều người bất hòa với Ngài, thì
Ngài vẫn là Của Lễ đẹp lòng Chúa Cha nhất !
Xưa
kia người ta thấy ngôn sứ Ê-ly-a bị vua Akhab truy nã, vì đã giết các tư tế của
vua, thế mà ngôn sứ Ê-ly-a vẫn thương vua, ông xin Chúa cho mưa thuận gió hòa,
vì đã ba năm sáu tháng hạn hán, mọi người lâm cảnh mất mùa chết đói (x 1V
18,41-46). Lòng nhân của ngôn sứ Ê-ly-a vẫn còn thua xa Đức Giê-su, Ngài đến
trước tòa Chúa Cha để xin làm hòa với kẻ giết Ngài, thì quả là không ai có thể
hiểu thấu lòng nhân ái của Ngài. Đó là lý do Đức Giê-su nói: “Khi ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, và ở đó
nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn
thờ, và đi làm hòa với anh em ngươi trước đã, rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ
vật của ngươi” (Mt 5,23-24: Tin Mừng).
Như
vậy khi ta dâng Lễ, không phải là lúc ta xin Chúa giáng họa trên những kẻ làm
hại ta, mà ta phải xin Chúa tha thứ cho họ, “không phải bảy lần trong ngày mà bảy mươi lần bảy, nếu đối phương trở
lại mà thú nhận: Tôi hối hận” (Mt 18,21-22). Có xin Chúa tha thứ cho kẻ hại
ta, thì ta mới chung một Của Lễ với Ngài trên đồi Sọ, mà dâng lên Chúa Cha, để
ta có thể hát lời kinh: “Lạy Thiên Chúa,
chúc tụng Ngài ở Xi-on thật là chính đáng” (Tv 65/64,2a), vì từ Xi-on (núi
Sọ), Con Thiên Chúa đã đổ máu ra để rửa sạch tội ta, thì “ta cũng phải tha thứ lỗi cho anh em, nếu không biết tha thứ, thì Cha
trên trời cũng chẳng tha thứ tội của ta” (Mt 6,14).
Thánh
Tông Đồ khuyên ta về vấn đề này: “Anh em
đừng phạm tội, chớ để mặt trời lặn mà cơn giận chưa tan, đừng để ma quỷ thừa cơ
lợi dụng” (Ep 4,26-27). Lời khuyên này không có nghĩa là ta được phép giận
nhau ban ngày, còn ban đêm thì phải làm hòa để có giấc ngủ ngon, nhưng ý thánh
Tông Đồ muốn dạy: Vào lúc “mặt trời lặn” (khoảng 12g trưa đến 3g chiều ngày Thứ
Sáu Tuần Thánh), chính là lúc Đức Giê-su đang bị treo trên thập gía, Ngài đến
trước tòa Chúa Cha để xin làm hòa với kẻ hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm” (Lc 23,34).
Vậy
không còn giận nhau lúc “mặt trời lặn” chính là phải bắt chước lòng nhân ái của
Đức Giê-su trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, để thể hiện ta đã được trở nên công
chính nhờ, với, trong Chúa Giê-su.
· ĐIỀU RĂN THỨ 6 - Chúa dạy: Chớ
dâm dục.
Ông
Mô-sê cắt nghĩa: Không được ngoại tình, nhưng Đức Giê-su làm hoàn hảo Luật này:
Ngài cấm những nguyên nhân gây ra ngoại tình như không được nhìn người nữ để
thỏa lòng dục, nếu mắt nên cớ vấp phạm thì móc, tay nên dịp vấp ngã thì chặt
đi, như thế phải quyết liệt loại trừ nguyên nhân gây ra dẫn đến ngoại tình. Nếu
cần bảo vệ tâm hồn trong trắng, không vi phạm điều răn thứ 6, thì ta phải “móc mắt, chặt tay
để khỏi phạm tội ngoại tình” (x Mt 5,27-30: Tin Mừng).
Đây
là kiểu nói tượng hình để nói lên ý
quyết liệt, phải đề phòng giác quan, coi chừng gương xấu. Kìa ông Đa-vít khởi
sự từ nhìn bà vợ của tướng U-ri-a tắm, rồi đi đến chỗ phạm tội ngoại tình! Độc
ác hơn nữa, ông đã bày mưu thâm độc giết tướng U-ri-a ngoài mặt trận, để tạo
điều kiện cướp vợ của Uria ! (x 1Sm
11.12).
Vậy
để tránh không vi phạm điều răn thứ 6 và thứ 9, cách hiệu quả nhất là “Đào vi
thượng sách” (chạy xa là tốt nhất). Bên Tầu, có một làng chuyên buôn ngựa, dân
làng hầu như ai cũng bị ngựa đá ít là một lần, và có kẻ đã phải mất mạng ! Ngày
nọ có một mãi võ sơn lâm đến làng rao bán thuốc ngừa khỏi bị ngựa đá. Ai ai
cũng đổ xô ra mua, người bán chỉ trao cho mỗi người một hộp, với lời dặn: khi
nào gặp ngựa thì mới mở hộp ra. Nhiều người mua hộp thuốc ấy về, tò mò mở ra,
trong hộp chẳng có gì ngoài một sợi dây dài 2m cùng tờ giấy nhỏ có ghi: “Bạn hãy đứng cách xa ngựa bằng sợi dây này” !?
· ĐIỀU RĂN THỨ 9 - Chúa dạy: Chớ
muốn vợ chồng người.
Thế
mà ông Mô-sê lại dễ dàng cho phép ly hôn, chỉ vì lòng chai dạ đá của dân (x Mt
19,8). Đức Giê-su nghiêm cấm việc ly dị, cũng như cấm đa thê. Ngài nhắc lại
thuở ban đầu Thiên Chúa chỉ thiết lập đơn hôn và bất khả phân ly, trừ nố dâm bôn …
(x Mt 5,32a: Tin Mừng).
Nố
dâm bôn, phải ly dị, nghĩa là đôi nam nữ bề ngoài người đời tưởng họ là vợ
chồng, nhưng thực chất họ sống bất hợp pháp theo Luật Chúa và Luật xã hội, đó
là nố dâm bôn. Trường hợp như thế phải ly dị!
· ĐIỀU RĂN THỨ 8 - Chúa dạy: Chớ
làm chứng dối.
Luật
Mô-sê dạy: Không được bội thề, nhưng phải giữ trọn lời thế với Chúa. Còn Đức
Giê-su lại dạy: “Thề thốt không có nghĩa
là trung tín trung thực, mà phải sống “có” thì nói “có”, “không” thì nói
“không”, phát xuất tự đáy lòng trung thực của mình, nói thêm nói bớt là do ma
quỷ” (x Mt 5,33-37: Tin Mừng).
Lời
thề quan trọng nhất chính là lời thề hứa
chung thủy của vợ chồng trong ngày thành hôn. Lời thế đó chỉ là ắt phải có,
nhưng không đủ đảm bảo cho sự trung tín của vợ chồng. Trong thực tế, sự thủy
chung không dựa trên lời thề, mà dựa trên nền tảng: “Không ai được sống cho chính mình, nhưng sống cho Đấng đã chết và sống
lại vì họ, hãy tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha tội cho ta, hãy làm hòa
với nhau trong Đức Ki-tô !” (2Cr 5,14-20).
Đức Giê-su còn trao
quyền cho Hội Thánh thay đổi và bổ túc Lề Luật cho hoàn hảo (x
Mt 16,18-19), để ai nghe lời các môn đệ là nghe Lời Ngài (x Lc 10,16). Đan cử :
a- Luật Mô-sê đòi buộc những ai muốn thuộc dòng giống
Do-thái thì phải chịu phép cắt bì, thì chính Chúa Giê-su đã hướng dẫn ông Phê-rô
bỏ Luật cắt bì. Vì thế ông Phê-rô nói: “Thánh
Thần và chúng tôi quyết định từ nay không đặt trên dân ngoại ách Lề Luật của
cha ông chúng ta nữa, chỉ cần họ tin lời rao giảng của chúng ta là ban Thánh
Tẩy cho họ” (x Cv 19,10t).
b- Hội Thánh cũng đã
cho phép dùng ảnh tượng để tôn kính, dù Thập giới cấm người Do
Thái không được tạc ảnh tượng.
Lý
do Hội Thánh cho phép ta đặt ảnh tượng để tôn kính :
Vào thời Cựu Ước: Thiên Chúa không
cho phép người ta tạc ảnh tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao hay dưới
đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất để mà thờ (x Xh 20,4).
Lý
do Chúa cấm đúc, tạc, vẽ tượng là để phân biệt Do Thái giáo với các tôn giáo
khác.
Các tôn
giáo khác họ thờ ngẫu tượng, các thần họ tôn kính theo lối suy tưởng của loài
người đặt ra: Đó là phóng thể của trí tuệ người về một vị thần họ tôn kính (x
Kn 13).
Mặt
khác, Thiên Chúa của Do Thái là Đấng vô hình. Do đó Đền Thờ của họ chỉ hai bia
đá ghi Lời Chúa được đặt nơi Cung Thánh, và không có hình tượng nào khác, trong
khi đó đền thờ ngoại giáo la liệt đủ mọi loại hình tượng…
Tuy
nhiên đã có lần Chúa lại bảo ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên, để ai bị rắn
cắn, mà nhìn lên con rắn đó, thì không bị chết ! (x Ds 21, 4t) Không phải tự
con rắn đồng có phép cứu người ta, nhưng là do lòng tin vào Thiên Chúa mà nhìn
lên con rắn đồng như Ngài đã dạy: cũng thế, chúng ta không phải nhìn lên ảnh
tượng bằng gỗ đá mà tự ảnh tượng có phép cứu chúng ta, nhưng đó là dấu cho
chúng ta tin vào Chúa Giêsu đã chết và sống lại để ban sự sống cho chúng ta.
Ngôn
sứ Isaia vào trong Đền Thờ cũng nhìn thấy hình hai Thiên thần được tạc để chầu
hầu trước Hòm Bia Thiên Chúa (x Is 6,2).
Vào thời Tân Ước: Người ta tôn thờ
Thiên Chúa không còn chỉ là tôn thờ Đấng vô hình như thời Cựu Ước, mà vì Thiên
Chúa đã làm người, trở thành Thiên Chúa hữu hình.
Hội
Thánh mang sứ mệnh truyền giảng chân lý của Chúa. Có ba cách rao truyền :
- Bằng lời nói.
- Bằng chữ viết.
- Bằng hình ảnh.
Nhưng
hình Chúa hoặc các thánh, Hội Thánh cho phép giáo dân tôn kính, thì ảnh tượng
đó nghệ nhân phải làm toát ra sự thánh thiện, đặc biệt làm cho mọi người nhận
ra những điểm giáo lý Chúa dạy, mà lời nói hoặc chữ viết không diễn tả nổi.
Việc
sắp đặt ảnh tượng để tôn kính phải giữ đúng Quy Luật Hội Thánh chỉ dạy: “Không được đặt hai hình của một vị trong một
nơi tôn kính” (x Hiến Chế Phụng Vụ số 125 và Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Roma
số 278).
Cụ
thể: nếu đã đặt tượng Mẹ Hằng Cứu Giúp, thì không đặt thêm tượng Mẹ Fatima,
tượng Mẹ Lộ Đức …
Vì thế
thánh Phao-lô xác quyết cho chúng ta: “Luật
Mô-sê chỉ giam người ta trong tội, Luật ấy chỉ có giá trị như một quản giáo dẫn
ta đến gặp Đức Giê-su, để nhờ tin vào Ngài mà chúng ta được trở nên công chính”
(x Gl 3,22.24).
Vậy
ta hãy tạ ơn Chúa: “Lạy Cha là Chúa Tể
trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho
những người bé mọn” (Mt 11,25: Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Ai bớt lời nào trong
Thánh Kinh, Thiên Chúa sẽ bớt phần kẻ ấy hưởng nơi Cây Sự Sống
! (Kh 22,19)