BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
A. Hướng dẫn tải phần mềm để DOWNLOAD BÀI GIÀNG
2/ Click
vào Download bên dưới dòng chữ FlashGet 3.3.0.1092
3/ Browse
để chọn nơi down về (destop cho tiện)
B. Hướng dẫn DOWNLOAD
BÀI GIÀNG AUDIO
1/
Click phải vào khung Download AUDIO
2/
Click chọn Flashget 3
3/
Browse để chọn nơi down về (File DOWNLOAD trong My Document)
4/
Khi nào được báo tải xong, click mở để nghe.
C. Hướng dẫn DOWNLOAD
BÀI GIÀNG VIDEO
2/
Click vào START REALPLAYER DOWNLOAD(theo trình tự được hướng dẫn)
3/ Khi nào được báo tải xong phần mềm, click Download This Video ở góc trên bên phải khung video để tải bài giảng về
BÀI ĐỌC I: Is 58,7-10
7 Đây
là lời Đức Chúa phán: “Ngươi hãy chia cơm cho người đói, rước vào nhà những
người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai
mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt
nhục? 8 Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương
ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức
Chúa bao bọc phía sau ngươi. 9 Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ
nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: "Có Ta đây! " Nếu ngươi
loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, 10
nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh
sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào
chính ngọ.”
ĐÁP CA: Tv 111
Đ. Giữa tối tăm bừng lên một ánh sáng
chiếu rọi kẻ ngay lành. (c 4a)
4 Giữa tối tăm bừng lên một ánh sáng
chiếu rọi kẻ ngay lành: đó là người từ bi nhân hậu và công chính. 5
Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn, biết theo lẽ phải mà thu xếp
công việc mình.
6 Họ sẽ không bao giờ lay chuyển, thiên
hạ muôn đời còn tưởng nhớ chính nhân. 7 Họ không lo phải nghe tin
dữ, hằng an tâm và tin cậy Chúa, 8 luôn vững lòng không sợ hãi chi
9 Kẻ túng nghèo, họ rộng tay làm phúc,
đức công chính của họ tồn tại muôn đời, uy thế họ vươn cao rực rỡ.
BÀI ĐỌC II: 1Cr 2,1-5
1
Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc
triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa.2 Vì hồi còn
ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su
Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá.3 Vì thế,
khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy.4 Tôi
nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào
bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.5 Có vậy,
đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào
quyền năng Thiên Chúa.
BÀI GIẢNG
BẢN CHẤT CỦA NGƯỜI KI-TÔ
HỮU
Chúa
nhật trước (4 năm A), để trở thành công dân Nước Trời, Đức Giê-su đòi chúng ta
phải sống tám mối Phúc (Mt 5,1-12), có thế ta mới trở thành muối và ánh sáng để
diễn tả bản chất và sứ mệnh của người Ki-tô hữu, mà Tin Mừng Chúa nhật này diễn
tả :
-
Muối và ánh sáng len lỏi vào mọi môi trường để tiêu
diệt và ngăn ngừa sự dữ.
-
Muối và ánh sáng làm tăng phẩm giá vật nó tiếp
xúc.
-
Muối và ánh sáng là dấu chỉ sự hiệp nhất.
-
Muối và ánh sáng là nhu cầu sự sống của loài
người.
I. MUỐI VÀ ÁNH SÁNG LEN LỎI VÀO MỌI MÔI TRƯỜNG ĐỂ TIÊU
DIỆT VÀ NGĂN NGỪA SỰ DỮ.
- Người Ki-tô hữu phải
như muối. để ngăn ngừa xác một sinh vật khỏi ươn thối, người ta
dùng muối để ướp, vì sau nó khi được tiếp xúc với muối, thì muối sẽ len lỏi vào
các tế bào của nó, muối sẽ tiêu diệt vi trùng xâm nhập.
- Người Ki-tô hữu phải là
ánh sáng. Ánh sáng cũng len lỏi vào mọi môi trường ta sống, nhờ đó
mà nhiều vi trùng trong bầu khí quyển bị tiêu diệt.
Thế thì sứ mệnh người Ki-tô hữu cũng phải len
lỏi vào môi trường xã hội, để nhờ sự hiện diện của mình mà tội lỗi, sự dữ phải
bị loại trừ. Nhất là người Ki-tô hữu phải biết dùng Lời Chúa làm cho môi trường
sống được thêm mặn mà, vui tươi, như lời thánh Phao-lô nói: “Lời lẽ của anh em hằng phải thanh nhã, mặn
mà,ý nhị, biết đối đáp sao cho phải với mỗi một người” (Cl 4,6). Vì thế
thánh Tông Đồ nói tiếp: “Khi tôi đến với
anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo
mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo
hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên
Chúa” (1Cr 2,1.4: Bài đọc II).
Vậy
sự hiện của người Công Giáo làm bùng lên nguồn ánh sáng Lời Chúa, đem lại sự
sống và hạnh phúc thật dồi dào cho mọi người, như thánh Tông Đồ lên tiếng
khuyên các tín hữu: “Giữa họ, anh em phải
chiếu rạng như đuốc sáng trên thế gian, bày tỏ Lời sự sống” (Pl 2,15). Muốn
được thế, ta phải hết lòng để tâm đọc, nghe, học hỏi và suy gẫm Lời Chúa, vì đã
xác tín rằng: “Lời Chúa là ngọn đèn soi
cho con bước,là ánh sáng chỉ đường con đi.Con đã thề và con xin cam kết giữ
quyết định công minh của Ngài.Lạy Chúa, thân con bị muôn phần khổ nhục, theo
lời Ngài, xin cho con được sống.”(Tv 119/118,105-107). Như thế “giữa chốn tối tăm bừng lên một ánh sáng,
chiếu rọi kẻ ngay lành” (Tv 112/111, 4a: Đáp ca).
II. MUỐI VÀ ÁNH SÁNG LÀM TĂNG PHẨM GIÁ VẬT NÓ TIẾP XÚC.
Người
Ki-tô hữu muốn như muối và ánh sáng, họ
phải có tinh
thần phục vụ khiêm tốn đến quên mình, làm cho tha nhân hoặc cảnh vật
tăng thêm phẩm giá. Thực vậy,
-
Thực phẩm trong bữa ăn nếu thiếu chất mặn
(muối), thì dù đó là cao lương, cũng chẳng ai muốn dùng ; hoặc thực phẩm ấy dộp
muối lên, thì có là cao lương cũng chẳng ai dùng được. Trong bữa tiệc người ta
khen cá ngon, thịt ngon… chẳng ai khen muối.
-
Vào phòng triển lãm xem tranh ảnh, mà phòng ấy
lại không có ánh sáng, thì dù có những tác phẩm tuyệt vời, cũng bằng không ; hoặc
vào phòng mà ánh sáng làm chói mắt mọi người, thì chắc chắn người ta phải ra
khỏi phòng ấy ngay. Như thế, cảnh vật đẹp nhờ có ánh sáng, người ta khen cảnh
vật chẳng ai cám ơn ánh sáng.
Như vậy, sự hiện diện của người Ki-tô hữu
trong cộng đoàn nếu chỉ muốn cho mọi người phải chú ý đến mình, thì cũng giống
như thực phẩm cõng muối, hoặc như một đèn pha chiếu thẳng vào mắt! Thì thà rằng
người đó đừng có mặt. Do đó ta phải sống khiêm tốn như ông Gioan: “Người phải lớn lên,còn tôi thì nhỏ lại”
(Ga 3,30).
III. MUỐI VÀ ÁNH SÁNG LÀ DẤU CHỈ SỰ HIỆP NHẤT.
Người
ta tìm thấy sự hiệp nhất nơi muối cũng như ánh sáng. Thực vậy
-
Muối là sự kết hợp giữa hai phân tử Cl và Na. Na
là kim loại kiềm và mềm, người ta điện giải muối để tách hai phân tử Cl và Na,
thì chúng đều là chất độc đối với cơ thể. Thế mà khi chúng hiệp nhất với nhau,
chúng làm cho cơ thể được thêm chất sống.
-
Ánh sáng là sự tổng hợp giữa các mầu sắc không
tách biệt. Người ta đã chứng minh điều này bằng cách bôi các mầu sắc vào đĩa
rồi cho quay tít, thì đĩa ấy đồng hóa với ánh sáng.
Vậy
sự hiện diện của người Ki-tô hữu ở bất cứ nơi đâu phải làm cho đồng loại được
hiệp nhất trong chân lý, đặc biệt là giúp nhau sống Lời Chúa, cũng chính là
Thần Khí ban sự sống (x Ga 6,63). Thánh Phao-lô nói: “Anh em hãy hăm hở sự hiệp nhất của Thần Khí (Lời Chúa) trong dây liên
kết hòa thuận” (Ep 4,3), đồng thời giúp nhau được hiệp thông Thánh Thể, “vì chưng chúng ta được chia sẻ cùng một tấm
bánh (Thánh Thể)” (1Cr 10,17). Vì thế, mỗi khi đi dự Lễ, trước khi rước lễ,
ta được nghe Chủ tế nhắc lại chân lý: “Xin
cho chúng con được hiệp nhất theo thánh ý Chúa”, nghĩa là “xin cho chúng
con được hiệp nhất nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, để chúng con cùng trở nên các chi
thể trong Thân Mình Đức Ki-tô”, để hết thảy mọi người “nên một như Chúa Cha ở
trong Chúa Con” (Ga 17,21)
IV. MUỐI VÀ ÁNH
SÁNG LÀ NHU CẦU SỰ SỐNG CỦA LOÀI NGƯỜI.
Sự
sống của nhân loại không thể thiếu muối và ánh sáng, thì người Ki-tô hữu phải
diễn tả tầm quan trọng này. Có nghĩa là: tôi phải sống đạo để mọi người cần sự
hiện diện của tôi, như Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia: “Ngươi hãy chia cơm cho người đói,rước vào nhà những người nghèo không
nơi trú ngụ;thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ
trước người anh em cốt nhục?Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như
rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành.Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía
trước, vinh quang ĐỨC CHÚA bao bọc phía sau ngươi.Bấy giờ, ngươi kêu lên, ĐỨC
CHÚA sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: "Có Ta đây! "
Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông
cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,
làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng
tối,và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (Is 58,7-10: Bài đọc I).
Chân
lý này bà góa thành Sarepta đã là chứng nhân. Thực vậy, trong lúc biết bao
người lâm cảnh đói khát, vì gặp hạn hán mất mùa, ngôn sứ Êlya không tìm đâu ra
lương thực để nuôi thân. May thay, ông gặp bà góa thành Sarepta đang lượm củi
về làm bánh cho hai mẹ con ăn rồi chờ chết, vì trong nhà chỉ còn một chén bột
duy nhất. Thế mà ông Êlya lại đến xin bà bánh ăn. Bà khước từ liền, vì bổn phận
làm mẹ phải lo cho con trước khi lo cho người ngoài. Nói cách khác, người mẹ
không thể giựt chiếc bánh con đang ăn trong lúc đói mà đưa cho người khác được.
Nhưng khi bà nghe ngôn sứ Êlya nói: “Chúa
sai tôi đến nói với bà: nếu bà làm bánh cho tôi ăn, thì hũ bột và bình dầu nhà bà không bao giờ vơi”. Bà góa ngoại
giáo vừa nghe Chúa nói như thế, thì tin ngay, nên bà đã đổi ý đi làm bánh đưa
cho ngôn sứ Êlya ăn trước. Quả thật, từ bấy giờ hũ bột và bình dầu nhà bà luôn
đầy ắp, trong khi đó biết bao người phải chết đói vì thiếu lương thực ! (x 1V
17,7-16).
Như
thế, Đức Tin của bà góa Sarepta đối với Lời Chúa đã làm mẫu cho tất cả mọi người noi theo để được thoát
tay tử thần.
Vậy
ai muốn khát vọng được sống bốn điểm trên đây, để trở thành muối và ánh sáng
cho đồng loại, họ phải bắt chước bà góa Sarepta tin vào Lời Chúa mà hành động cách.
Đối với chúng ta, mỗi khi hiệp dâng Thánh Lễ ta được trực tiếp nghe Chúa dạy,
và ta còn được đồng hóa với Chúa Giê-su Phục Sinh, Ngài sẽ cho ta chẳng thiếu
thốn gì, vì ngoài Chúa ra “ai sẽ cho ta
thấy hạnh phúc? Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4,
7). Đó cũng là lý do thánh Phao-lô xác tín vào Chúa Giê-su để chúng ta bắt
chước ông: “Ngoài Chúa Ki-tô Giê-su chịu đóng đinh (Chúa Ki-tô hiến tế), tôi
không muốn biết điều gì khác nữa” (1Cr 2,2: Bài đọc II). Tôi chỉ biết Chúa
Ki-tô chịu đóng đinh, có nghĩa là tôi sống phục vụ như Ngài đến mất mạng, để
rồi tôi trở nên một Hy Lễ nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mới làm vinh hiển
Chúa (x Rm 11,36).
Chúa
Ki-tô đã đòi buộc người Ki-tô hữu phải là muối mặn, phải là ánh sáng. Và nếu
muối ra lạt thì nó cũng không phải là độc dược ; đèn mà không sáng thì nó cũng
chưa làm chết ai. Loại người như thế đã bị Đức Giê-su nguyền rủa: “Đổ ra đường cho người ta dẵm đạp” (Mt 5,
13b: Tin Mừng) .Thế thì người Ki-tô hữu có khi không phải là muối lạt, mà còn
là độc dược, là vi trùng đối với đồng loại, thì hỏi Đức Giê-su phải dùng hình
ảnh nào để nguyền rủa loại người này ?! Ta cứ so sánh Giu-đa Iscariot với anh
trộm lành: Giu-đa tuy là môn đệ Đức Giê-su tuyển chọn, nhưng anh đã loại trừ
Chúa ra khỏi tâm hồn, để nhận lấy 30$, anh đã trở thành quỷ sát nhân, và rồi
cuối cùng anh tự đi đến cái chết thê thảm: vỡ bụng lòi ruột ra (x Ga 6,70-71 ;
Cv 1,18) ; trong khi đó, anh trộm lành suốt đời đằm mình trong tội lỗi, nhưng
cuối cùng anh xin được theo Đức Giê-su, và như thế anh đã sống Lời Đức Giê-su
nói: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo
tôi sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”
(Ga 8,12: Tung Hô Tin Mừng), thì anh trở thành vị thánh đầu tiên được Chúa đưa
vào Thiên Đàng (x Lc 23,42-43). Như thế anh trộm lành đã trở thành muối và ánh
sáng cho mọi kẻ ác bắt chước anh sám hối và xin theo Chúa Giê-su để được cứu
độ.
Nhà cách mạng lừng danh Gandhi, tuy ông không phải là
người Công Giáo, nhưng ông rất say mê Thánh Kinh, Thánh Kinh chính là Cuốn Sách
gối đầu giường của ông. Nhờ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm mà ông đã chủ trương
bất bạo động, lấy tình thương xóa hận thù để buộc chính quyền Anh phải trả lại
độc lập cho dân tộc Ấn, và còn giúp dân Ấn xây dựng đất nước! Nhờ trải nghiệm
này mà ông đã nói với mọi người rằng: “Đời
chỉ thành công bao lâu dám thí nghiệm sống chân lý Phúc Âm”.
Đức Tin đã đâm rễ sâu vào ông Gandhi đến thế, nhưng sao
đến cuối đời ông vẫn không xin theo đạo??
Lý do vì có một lần kia, ông muốn vào cầu nguyện tại một
Nhà Thờ, với hy vọng sẽ gặp một linh mục để xin học giáo lý và được lãnh Bí
tích Thánh Tẩy. Nhưng... ông vừa mới bước lên bậc thềm của ngôi thánh đường,
thì một người da trắng từ bên trong bước ra cản không cho ông vào và nói : “Nhà
Thờ này dành cho người da trắng, ông muốn cầu kinh thì đi Nhà Thờ khác!”
Từ đó ông quyết định không theo đạo Công Giáo nữa !
Kẻ đã cản bước đường ông Gandhi đến với Chúa có đáng “buộc cối đá lớn vào cổ mà xô xuống biển” hay
không?! (x Mt 18,6). Vì nó là độc dược, là vi trùng, tệ hơn muối lạt!
THUỘC
LÒNG
Ánh
sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp của anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt 5,16).
LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH