BÀI GIẢNG
CHÚA GIÊ-SU VUA TÌNH YÊU
Chúa Giê-su là Vua :
Ngài cai trị chăm sóc dân bằng Lời. Ta nhớ lại ba ngày trước đây Phụng Vụ cho
ta đọc trình thuật ông Samuel đêm ngày để tâm nghe Lời Chúa, tất cả đều rót vào
tâm ông, ông không để một Lời nào của Chúa rớt xuống đất (x 1Sm 3,1-19). Nhờ đó, ông có uy tín điều hành mọi sinh hoạt cả quốc gia của ông, dù ông không phải là
vua, nhưng chính ông đã đặt Sao-lê làm vua đầu tiên cho dân
(x 1Sm 10), sau này vì Sao-lê bất trung với Chúa, nên ông đặt Đa-vít làm vua thay thế Sao-lê (x 1Sm 16), và để điều hành mọi sinh hoạt của dân, vua chúa phải hỏi ý kiến ông. Nói cách khác, ông Samuel
dùng Lời Chúa lãnh đạo dân. Thế thì Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa, Lời tác tạo vạn vật,
điều khiển và bảo tồn muôn loài (x Ga 1,1-18).
Cụ thể qua Tin Mừng hôm nay (Mc 2,1-12) chúng ta mới đọc, cho chúng ta nhận
biết vai trò thủ lãnh của Đức Giê-su chăm sóc dân :
Người
ta ngồi chật căn nhà, không còn ai có thể bước ra bước vào,
để nghe Lời Đức Giê-su giảng dạy và xin chữa lành bệnh. Ngài tỏ ra vô cùng
thương dân, nhất là những người đau khổ. Lúc ấy có bốn người khỏe
mạnh khiêng người bất toại đưa đến cho Ngài, nhưng không tìm lối vào
nhà được, vì dân ngồi chật ních, họ không chờ đợi người trong nhà giãn ra, cũng
không về để mai đến sớm, và cũng chẳng đi tìm thầy khác, họ mau lẹ leo lên mái
nhà, dù không phải là nhà của họ mà họ
dám liều đục sân thượng một lỗ to. Chắc chắn khi họ đục có nhiều người phản
đối, nhưng họ cứ gan lỳ đục cho bằng được, để thả người bất toại nằm trên chõng
xuống trước mặt Đức Giê-su (theo ông M C Helpern trích trong Tập Làm Giàu Kiến
Thức Kinh Thánh trang 1119 : Mái nhà của người Do Thái gác cây ngang tường và
tô đất). Thế mà không làm Đức Giê-su phẫn nộ, và chưa ai lên tiếng xin Ngài
điều gì, thì Ngài đã nói : “Này con, tội con đã được tha”. Câu nói này làm cho những kinh sư có
mặt phẫn uất, họ ấm ức trong lòng : “Ông này nói phạm thượng”, Đức Giê-su
biết rõ suy nghĩ của họ, Ngài hỏi : “Tại
sao các ông nghĩ thầm trong lòng như thế ?” Rồi Ngài hỏi họ : “Nói rằng tội con được tha” hay “vác chõng mà về”, đàng nào dễ hơn ?”
Thực ra cả hai câu ấy đều không thể nói mà sinh hiệu quả, nếu Ngài không phải
là Thiên Chúa. Đó là lý do họ im lặng. Đức Giê-su muốn chứng minh Ngài là Thiên
Chúa có quyền tha tội, Ngài liền ra lệnh cho người bất toại : “Vác chõng mà về”. Tức khắc bệnh nhân
đứng thẳng vác chõng hiên ngang đi về. Thế là mấy ông kinh sư rút lui, tìm mưu
tính kế nộp Đức Giê-su cho chính quyền Roma. Điều chúng đã ấm ức trong lòng lúc
nhìn thấy Đức Giê-su chữa lành cho người bất toại, trước tòa án bật lên tiếng
la hét : “Tên này nói phạm thượng, nó
phải chết” (x Mc 14,64).
Xưa
kia chúng chứng kiến Đức Giê-su ra lệnh cho người bất toại vác chõng về nhà,
thì vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ấm ức trong lòng ý tưởng : “Bây giờ mày vác thập giá đi lên đồi để bọn
tao đóng đinh !” Chính lúc đó, Đức Giê-su mới thực sự hoàn tất ơn tha tội
cho tất cả những ai biết sám hối xin Ngài thương xót giống anh trộm lành (x Lc 23,40-43).
Chứng
từ trên đây ai cũng phải nhận ra Đức Giê-su thật là Vua quyền năng, yêu thương
tuyệt vời, nơi Ngài toát ra sự thu phục người thành tâm thiện chí như bốn người khỏe mạnh đã
diễn tả Đức Tin và lòng mến :
-
Họ đã tìm được chân LÝ là Giê-su Vua quyền
năng, yêu thương.
-
Họ mau LẸ đưa người bất toại lên mái nhà.
-
Không phải nhà của họ, mà
họ dám làm LIỀU đục mái thượng hòng
thả bệnh nhân xuống.
-
Khi ấy, chắc chắn có nhiều
người phản đối, nhưng họ vẫn gan LỲ
cố đục cho bằng được.
Chính
vì hành
động Đức Tin của bốn người khỏe mạnh, mà tác giả
Phúc Âm ghi : “Đức Giê-su nhìn thấy lòng tin của họ”. Đức Tin thuộc lãnh vực
siêu hình, thế mà Đức Giê-su lại nhìn thấy lòng tin của họ biểu lộ bằng hành
động : “LÝ – LẸ - LIỀU – LỲ”. Người
bất toại được lành mạnh là nhờ Đức Tin của bốn người này, đó là Tín Điều Các
Thánh Cùng Thông Công.
Đúng
lý ra toàn dân Do-Thái từ khi thoát nô lệ Ai-Cập về đất Chúa hứa, họ cũng phải
nhận ra Thiên Chúa toàn năng, vô cùng yêu thương, nhất là họ nhớ lại thời
cha ông, Chúa đã dùng ông Mô-sê dẫn dắt họ thoát nô lệ Ai Cập, rồi Ngài
còn ghi Lời trên hai tấm đá trao cho ông Mô-sê dẫn họ về tới Đất Hứa, dù trên đường gặp nhiều rào cản, nhưng họ đã vượt thắng.
Thế mà họ lại đòi ông Samuel phải đặt cho họ vị vua, giống
như dân ngoại! Ông Samuel rất khó chịu, ông đến thưa với Chúa, nhưng Chúa đã
nói với ông : “Không phải chúng làm nhục
ngươi, mà chúng đã chọc thẳng vào mặt Ta”,
ông Samuel trở về giải thích cho dân : “Nếu
anh em đòi có vua, thì anh em phải làm nô lệ cho cả vợ con ông ấy, anh em phải
đóng thuế, những gì quý báu của anh em, ông có quyền cướp trao cho đầy tớ của
ông ! Lúc ấy, anh em có kêu ca, oán trách, thì Thiên Chúa cũng không nghe đâu”.
Nhưng ông Samuel không thuyết phục được dân, họ vẫn quyết liệt đòi có vua, và
ông đã chiều theo ý họ ! (x 1Sm 8,4-22 : Bài đọc năm chẵn).
Xưa kia Chúa đã bực
mình vì dân Do Thái đòi ông Samuel đặt vua cho họ, như thế là họ đã không chấp
nhận lời kinh : “Phúc thay quốc gia nào
được Chúa làm Chúa Tể” (Tv 144/143,15). Dẫu thế,Chúa vẫn ban Con Một Ngài
mới thực là Vua lãnh đạo cả loài người, “Người
còn là Vị Ngôn Sứ vĩ đại xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm
dân Người” (Lc 7,16 - Tung Hô Tin Mừng). Ai tin theo Ngài, thì Ngài đưa họ
vào “chốn
nghỉ ngơi của Ngài”.
Tác giả thư Do Thái
(4,1-5.11 : Bài đọc năm lẻ) đã nhắc lại trình thuật Sáng Thế thuở ban đầu :
Chúa dùng Lời tạo dựng vạn vật trong vũ trụ rất tốt đẹp nội trong sáu ngày, rồi
trao hết cho con người làm chủ, ngày thứ bảy Ngài nghỉ ngơi, điều này báo trước
vào thời Tân Ước, Con Thiên Chúa bị giết vào ngày thứ sáu, được an táng vào
ngày thứ bảy, đó là chốn nghỉ ngơi
của Ngài. Thế nên Nghi Thức làm Phép Huyệt trước khi hạ quan tài, Chủ sự cầu
nguyện : “Xin Chúa thánh hóa phần mộ này
để (A) được an nghỉ, đợi chờ ngày
phán xét, được cùng các thánh sống lại vinh hiển” (Mẫu B).
Vậy sống đời này, ai
được Chúa làm Chủ, thì khi họ kết thúc cuộc hành trình trên dương thế, thì người
ấy được vào nơi an nghỉ với Chúa Giê-su, chắc chắn họ được chia phần phúc sống
lại vinh hiển với Ngài. Vì thế “anh em
đừng lãng quên những việc Thiên Chúa làm” (Tv 78/77,7b : ĐC năm lẻ) và phải
cất lời cầu : “Lạy Chúa, tình thương
Chúa đời đời con ca tụng” (Tv 89/88,2a :ĐC năm chẵn).
Ngày nay mọi người phải thừa nhận rằng nước Mỹ đang lãnh đạo thế giới! Tại
sao như thế? Tôi tin chắc rằng họ được vinh dự đó là nhờ họ biết suy tôn và phó
thác vào Thiên Chúa trong mọi sinh hoạt của họ. Cụ thể :
*
Tiền tệ của Mỹ từ đồng nhỏ nhất cho đến đồng lớn nhất đều có hàng chữ : “IN GOD
WE TRUST” (Chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa).
Tiền
này được hầu hết các quốc gia trên thế giới ưa thích sử dụng trong lãnh vực
thương mại. Thậm chí xuống âm phủ người ta vẫn cần nó, chẳng vậy mà người ngoại
giáo khi đưa quan tài ra nghĩa trang, họ thường dùng “dollars âm phủ” rải đường
để “gởi” xuống âm phủ cho thân nhân của mình tiêu xài. Té ra lúc sống thì gõ mõ
tụng : “Nam mô a di đà Phật”, xuống âm phủ lại tụng : “IN GOD WE TRUST” !
Thế
là dân Mỹ mặc nhiên đã làm cho mọi người sống hay chết đều được đọc lời “chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa”.
*
Ngày nhậm chức Tổng thống, dân Mỹ đủ mọi sắc tộc, mọi tôn giáo tập họp trước
quảng trường Nhà Trắng cùng cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, tiếp đó vị Tân Tổng
thống đặt tay lên Sách Thánh tuyên thệ nhậm chức.
*
Mỗi khi Quốc hội Mỹ nhóm họp, họ đều bắt đầu cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha.
*
Ngay cổng các phi trường ở Mỹ, ai ai ra vào cũng đọc thấy hàng chữ lớn “GOD
BLESS AMERICAN” (Thiên Chúa chúc lành cho
dân tộc Mỹ).
*
Ngày 11-09-2001 tòa “Tháp Đôi” của Mỹ bị bọn khủng bố đánh sụp, đó là một biến
cố đau thương nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Nếu biến cố ấy xảy ra ở nước khác, chắc chắn suy nghĩ đầu tiên của dân
tộc ấy là tìm cách trả thù! Trái lại, toàn dân Mỹ dù có đạo hay không, việc đầu
tiên của họ là tổ chức cầu nguyện! Điều tuyệt vời ở đây là họ bị nạn vào ngày
11-09, mà không chọn ngày 12-09, cũng không lấy ngày 13-09, mà họ chọn đúng
ngày 14-09 là ngày lễ “Suy Tôn Chiến Thắng Thánh Giá Chúa Giê-su”
để mọi người cùng thắp nến cầu nguyện! Điều này chứng tỏ họ muốn hiệp thông với
lời cầu nguyện được cử hành trong Phụng Vụ trên toàn thế giới của người Công Giáo
trong này lễ Kính Thánh Giá này!
Quả thật “Phúc thay quốc gia được
Chúa làm Chúa Tể!” (Tv 144/143, 15).
THUỘC LÒNG
+ Thiên Chúa là cờ trận của
tôi ! (Xh 17,15)
+ Phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể! (Tv 144/143, 15).