BÀI GIẢNG
SÓNG GIÓ KINH HOÀNG NHẤT !
Loại sóng gió do tội người Ki-tô hữu không canh tân Đức Tin, gây nên hậu
quả khốc hại khôn lường. Sự cố các Tông Đồ gặp sóng gió trên biển, nhằm tiên báo cho những ai
tin theo Đức Giê-su, họ sẽ còn phải gặp sóng gió về niềm tin khởi đi từ cuộc Tử
Nạn của Ngài.
Thực vậy, những chi tiết thuyền
các Tông Đồ gặp sóng gió được tác giả Marco ghi mà ta đọc trong Thánh Lễ hôm
nay, được lặp lại vào giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su :
Ø
Các
môn đệ trên thuyền thấy Đức Giê-su thì hô lên "Ma kìa !" (x Mt
14,26). Cũng giống như khi Ngài sống lại, Ngài hiện đến với các ông đang ngồi
run trong căn nhà đóng kín cửa, các ông cũng hô lên : "Ma kìa !" (Lc 24, 37).
Ø
Khi
Đức Giêsu lên thuyền các môn đệ và nói : “Đừng sợ !” (x Mt 14,27). Cũng như khi
Ngài sống lại, Ngài đến với các Tông Đồ đang run vì sợ hãi, Ngài nói :
"Bình an cho các con" (Ga 20, 19).
Ø
Đức
Giê-su truyền cho ông Phê-rô đi trên mặt nước biển đến với Ngài (x Mt 14,28).
Sau khi Chúa Phục Sinh, Ngài ra lệnh cho các môn đệ dùng nước Thánh Tẩy đưa
muôn dân vào Hội Thánh làm môn đệ của Ngài (x Mt 28,18-19)
Nhìn
vào lịch sử Hội Thánh, sau khi Chúa Giê-su Phục Sinh, loài người vẫn chưa thấy
được bình an, vẫn còn bị sóng gió :
Loại sóng gió Chúa cho phép xảy ra nhằm huấn luyện con người. Đan cử :
1- SÓNG GIÓ DO THIÊN
NHIÊN GÂY NÊN.
Cụ thể như thuyền các Tông Đồ vượt biển, Đức Giê-su đã đến cứu họ kịp thời (x Mc
6, 45-52 : Tin Mừng) ; Ngày 26 tháng 12 năm 2004, sóng thần dấy lên xô vào 14
quốc gia, chôn sống gần 300.000 người dưới lòng biển ! Từ đó nảy sinh nhiều tâm
hồn quảng đại biết giúp nhau, và sự cố ấy Chúa nhắc cho mọi người hãy sẵn sàng,
vì không biết mình ra khỏi thế gian vào lúc nào, và nơi dương thế này không thể
dừng lại để hưởng thụ những vẻ đẹp thiên nhiên. Do đó ai cũng phải hướng lòng
đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu.
2- DỤC VỌNG NỔI LOẠN : Thánh
Phao-lô không tránh khỏi nỗi khổ này, ông đã thú nhận sự yếu hèn của ông với
giáo đoàn Roma : “Chẳng có gì lành cư ngụ
trong tôi. Sự lành tôi muốn tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn tôi lại cứ
làm” (Rm 7,18-19).
Thánh Phao-lô hiểu rằng Chúa cho
phép dục vọng ông nổi loạn như thế để ông không còn tự tôn tự mãn về những mạc
khải cao siêu Chúa đã ban cho. Dầu thế, ông vẫn tha thiết xin Chúa (ba lần) để
Ngài rút “cái dằm” khỏi ông, nhưng Chúa lại trả lời : “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì quyền năng được thể hiện trọn vẹn trong sự yếu
đuối” (x 2Cr 12,7-10).
3- SÓNG GIÓ BỞI “NGƯỜI
NHÀ” GÂY NÊN
(x Mt 10,36). Thậm chí chúng giết cả Đức Giê-su, nhưng chỉ ba ngày sau Ngài
sống lại vinh quang và đem ơn cứu độ cho muôn người ; hoặc những người cùng tôn
thờ Thiên Chúa với Stê-pha-nô, lại ném đá ông đến chết, nhưng Stê-pha-nô cầu nguyện
cho những kẻ đã hại mình, hiệu quả giáo dân tản đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng
; “sói Saulo” biến thành Tông Đồ Phao-lô xuất sắc (x Cv 7-9).
Tuy vậy có hai loại sóng gió do tội
người ta không sống đúng giáo lý của Chúa, không canh tân Đức Tin, gây nên hậu
quả vô cùng tai hại, không ngôn ngữ nào diễn tả xiết, và không biết bao giờ mới
chấm dứt. Cụ thể :
1- NHIỀU KẺ TÔN THỜ THIÊN CHÚA,
NHƯNG KHÔNG TIN VÀO HỘI THÁNH CHÚA KI-TÔ LẬP LÀ “CHUỒNG CHIÊN” DUY NHẤT. Vì Chúa muốn mọi người phải được
cứu độ trong một “chuồng chiên” là Hội Thánh Ngài lập, nhất là phải tin vào
quyền giáo huấn của Hội Thánh mà Chúa Giê-su đã trao (x Mt 11,25-26 ; 16,13-19
; Ga 10 ; 18,19-23 ; Gl 1,8), vì không thể tìm được chân lý Đức Tin vẹn toàn
ngoài Hội Thánh. Thế mà, có nhiều người đã không xác tín như thế, nên đã ly
khai với Hội Thánh. Bởi lẽ những người này thấy nhiều người Công Giáo sống
thiếu gương mẫu, không phải chỉ ở nơi giáo dân, mà còn lần lên tới Giáo hoàng.
Do đó, họ không tin là Chúa dùng các chủ chăn trong Giáo Hội để giảng dạy Lời
Chúa, vì vậy họ tách ra thành nhiều giáo phái theo ý mỗi người : Nào là Chính Thống,
Tin Lành, Anh Giáo ! Sự cố đau lòng này trái với lời cầu nguyện của Đức Giê-su
cho Hội Thánh Ngài luôn hiệp nhất : “Lạy
Cha, xin cho chúng nên một như Con ở trong Cha và Cha ở trong Con” (Ga
17,21-23), không biết bao giờ lời cầu nguyện này mới được ứng nghiệm !? Thảm
họa này tệ hơn xưa kia bà Ma-ri-am thấy ông Mô-sê lấy vợ ngoại giáo người Kush,
nên bà không tin Chúa dùng riêng ông để nói Lời Chúa cho dân, bà nói : “Dễ chừng Chúa chỉ phán dạy qua Mô-sê mà thôi
sao, Ngài đã không phán dạy ngang cả chúng ta đó ư ?” Chúa nghe được, Ngài
phạt bà bị cùi tức khắc ! (x Ds 12,1-13)
Loại sóng gió bởi tội con người, nhất là khi đã mất niềm tin vào chủ
chăn trong Hội Thánh thì họ lập ra giáo phái khác! Điều ấy Chúa không muốn nó
xảy ra, vì chỉ làm khổ mọi người, làm mất vinh danh Chúa ! Thế mà ít ai nhận ra
sóng gió đó là do bởi tội mình gây nên, để bắt chính mình phải làm theo ý Chúa
qua giáo huấn của Hội Thánh !
2- BỎ CẦU NGUYỆN VÀ GIẢNG LỜI VÌ BẬN
TÂM LO VIỆC PHỤC VỤ THÂN XÁC ĐỒNG LOẠI. Đan cử các Tông Đồ vào thời Giáo Hội
sơ khai được giáo dân tín nhiệm, họ bán hết tài sản góp cho các ngài để chia sẻ
đồng đều cho mọi người. Thực ra, bản chất việc làm này là tốt, vì đã diễn tả
thời cánh chung trong Nước Thiên Chúa chẳng ai thiếu thốn gì. Vì thế, các Tông
Đồ mải mê công việc này mà xao nhãng cầu
nguyện và giảng Lời, tức là bỏ bổn phận chính yếu mà làm việc phụ, hậu quả
gây sóng gió trong cộng đoàn, các tín hữu bất hòa với nhau ! Kinh Thánh đã trách : “Nhiều kẻ giữ đạo hình thức, vì nó loại bỏ điều chính mà làm điều phụ”
(2Tm 3,5). Thánh Augustin nói : “Bạn chạy
khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất rồi”. Chúa soi sáng cho các Tông Đồ nhận
biết mình sai lầm, nên các ông đã chọn ra bảy người có uy tín trong dân gọi là
Phó tế, để trao việc quản lý tài sản của Giáo Hội và chia sẻ của cải cho mọi
người không ai dư của, không ai túng thiếu ; còn các
Tông Đồ thì trở về với nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, từ bấy
giờ Hội Thánh được bình an và phát triển (x Cv 6,1-7).
Nhìn vào thực trạng của Hội Thánh
trên toàn thế giới hôm nay, nhiều người Công Giáo dần dần bỏ đạo, hoặc sang tôn
giáo khác, hoặc không thiết tha gì đến dự Phụng Vụ của Hội Thánh, kể cả lễ Chúa
nhật và lễ Trọng, họ cũng tỏ ra thờ ơ lãnh đạm ! Đài Chân Lý Á Châu loan tin
ngày 05/01/2010 về tình trạng Giáo Hội Công Giáo tại Hòa Lan :
“Cách đây nửa thế kỷ, Hòa Lan là
một nước Công Giáo vững mạnh, có sức truyền giáo. Nhưng ngày nay (2010), 41%
người Hòa Lan tuyên bố vô tôn giáo ; 58% không còn biết
lễ Giáng Sinh là gì! Như thế 41% + 58% = 99%
mất Đức Tin !! Đa số nhà thờ Công Giáo ở Hòa Lan biến thành ký túc xá,
tiệm buôn bán, nhà thờ Hồi Giáo ! Tâm hồn giới trẻ trống rỗng về Đức Tin, nhưng
không biết hỏi ai, vì thiếu người giảng dạy ! Một số Linh mục dòng Đaminh và
Linh mục dòng Tên chủ trương dâng Lễ không cần Linh mục, chỉ cần giáo dân quy
tụ cùng dâng Lễ là được. Giáo Hội Công Giáo Hòa Lan đang có nguy cơ biến mất !
Sự cố này đang diễn ra không phải
chỉ ở Hòa Lan, mà còn ở hầu hết các nước có nền văn hóa Ki-tô giáo trước đây
vững mạnh, nay suy sụp mỗi ngày càng trầm trọng hơn, nhưng chẳng mấy ai biết
cầu nguyện mình phải làm gì? Có phải lỗi tại mình không, mà sự cố đau lòng ấy
cứ đang diễn ra ? Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử mạc khải, ta tìm được câu trả
lời cho vấn nạn đời sống người Công Giáo hôm nay xuống dốc. Cụ thể mạc khải ghi
lại cho ta chuyện con cháu Noe xây tháp Babel với hy vọng chạm tới Trời để lưu
danh muôn thuở, nhưng ý định đó thất bại, họ đã phải tản đi khắp thế gian chỉ
vì họ không nói chung một ngôn ngữ nữa ! (x St 11,1-9) Nhưng đối lại sự cố ấy, vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần Hiện
Xuống, muôn dân trên khắp mặt đất, những người đã di tản từ thời xây tháp
Babel, lại tụ về Giê-ru-sa-lem nghe giáo huấn của ông Phê-rô, thủ lãnh Hội
Thánh, ai nghe cũng hiểu như tiếng mẹ đẻ của mình, dù họ khác dân tộc, bất đồng
ngôn ngữ. Hôm đó, thánh Phê-rô ban Thánh Tẩy cho 3.000 người, đây là một mẫu
cộng đoàn, dòng giống của Noe hiểu chung một ngôn ngữ giáo lý của Hội Thánh, họ
lại tiếp tục xây tháp Babel chạm Trời : cả cộng đoàn được cứu độ ! (x Cv 2)
Chứng từ mạc khải trên đây cho chúng ta phải đặt câu
hỏi : Liệu ngày nay tất cả các Giám mục và Linh mục khi dâng Lễ, có giảng giải đúng
Quy luật của Hội Thánh đã dạy trong Hiến Chế Phụng Vụ không. Cụ thể :
-
Hiến
Chế Phụng Vụ số 24 dạy : “Khi cử hành Phụng Vụ, Kinh Thánh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, Hội Thánh đã
trích từ Thánh Kinh những bài đọc để dẫn
giải trong bài giảng”.
-
Hiến
Chế Phụng Vụ số 52 dạy : HeHiw5HieHI“ Bài
giảng phải căn cứ vào Thánh Kinh để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và các
qui tắc cho đời sống Kitô hữu trong suốt chu kỳ năm phụng vụ. Bài giảng rất đáng được coi như một phần
của chính Phụng Vụ” .
-
Hiến
Chế Phụng Vụ số 35 dạy “Bài giảng thuộc phần hoạt động của Phụng Vụ,
nên phải có thời giờ thích hợp để
giảng giải…Phải hết sức trung thành chu toàn thừa tác vụ giảng giải đúng với Nghi lễ. Tiên vàn
bài giảng phải múc lấy từ nguồn Kinh Thánh và Phụng Vụ , vì như thế là rao
truyền việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ” .
Nếu giáo
dân đi dự Lễ bất cứ nhà thờ Công Giáo nào, cũng được nghe lời giáo huấn do các
chủ chăn khai triển từ các bản văn Kinh Thánh, làm đúng với Quy luật Phụng Vụ,
như giáo huấn của Hiến Chế Phụng Vụ trong Công Đồng Vatican II đã dạy như trên,
thì chắc chắn tháp Babel mới càng ngày càng được xây dựng rộng và cao hơn ngày
lễ Ngũ Tuần, mà giáo dân cùng Thủ lãnh Phê-rô đã khởi công xây dựng.
Nhưng rất tiếc ngày hôm nay, giáo
dân nhiều lúc chỉ nghe các chủ chăn giảng kiểu tự biên tự diễn, không dựa vào Quy
Luật giảng mà Hội Thánh đã dạy như trên.
Ta biết bàn tiệc Lời Chúa trong Lễ
Chúa nhật và Lễ Trọng : Bài đọc I, Đáp ca, Bài đọc II, Tin Mừng, mà người giảng
chỉ cho dân “ăn” một trong bốn “món ấy”, thì cũng giống như một người khách
được mời đến ăn tái nhúng, trên bàn đã dọn sẵn bốn món : Thịt, rau sống, bánh
tráng, nước chấm. Thế mà khi khách ngồi vào bàn tiệc, người phục vụ lấy đĩa úp lại
ba món, chỉ cho khách ăn một món thôi, dĩ nhiên một món cũng là thực phẩm. Chắc
chắn lần sau có mời, khách không đến nữa!
Vì lý do trên mà ngày nay giáo dân
dần dần bỏ Nhà Thờ, bỏ Chúa, tháp Babel
thuở xưa vẫn tiếp tục thất bại !
Vậy dân Chúa ngày hôm nay muốn không
còn sợ hãi đến mất Đức Tin vì thấy nhiều người bỏ đạo, thì từ chủ chăn đến giáo
dân phải nhớ sống lời thánh Gioan dạy : “Ai
ở lại trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
Căn cứ điều này mà tình yêu đã nên hoàn hảo với chúng ta : Đó là chúng ta được
mạnh dạn trong ngày phán xét, vì Đức
Giê-su thế nào, chúng ta cũng như vậy ở thế gian này. Tình yêu không biết
đến sợ hãi ; trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với
hình phạt, và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga 4,16-18 :
Bài đọc).
Như thế, thánh Gioan đã khẳng định
với chúng ta rằng : muốn hết sợ hãi, thì hãy làm cho tình yêu Thiên Chúa nên
trọn hảo, cụ thể là “Đức
Giê-su thế nào chúng ta cũng y như vậy ở thế gian này”. Mà ở thế gian
ngày nay, sau khi Chúa Giê-su Phục Sinh, Ngài trực tiếp giảng khi Hội Thánh cử
hành Phụng Vụ (x Dt 1,2), thì giáo dân đến Nhà Thờ dự Phụng Vụ phải nghe được
các chủ chăn giảng dạy đúng theo Quy Luật Hội Thánh đã truyền. Có thế, không
còn người bỏ đạo, bởi vì họ được nghe, hiểu và nói chung một ngôn ngữ của Hội
Thánh, khởi đi từ Phụng Vụ. Có như thế chúng ta mới làm cho “muôn dân muôn nước sẽ thờ lạy Chúa” (Tv
72/71,11 : Đáp ca). Vì muôn dân nước chỉ tôn thờ duy một Thiên Chúa : “Lạy Chúa Ki-tô, vinh danh Chúa là Đấng được
loan truyền giữa muôn dân. Vinh danh Chúa là Đấng cả hoàn cầu tin kính”
(1Tm 3,16 : Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Chúa Giê-su Phục Sinh chỉ ban bình an ba lần cho những
ai cùng với Hội Thánh hiệp dâng Thánh lễ (x Ga 20,19.21.26)