BÀI GIẢNG
MẦU NHIỆM CON THIÊN CHÚA NHẬP THỂ
Qua hình thức
tổ chức lễ Giáng Sinh dựa vào lịch sử đời sống của Hội Thánh, Phụng Vụ đã diễn
tả về mầu nhiệm nhập thể :
Ø Con Một Chúa Cha nhập thể, là một nhân vật lịch sử phi thời gian.
Ø Ngài là Mặt Trời Công Chính.
Ø Ngài sống nghèo cho ta được giàu có.
Ø Ngài nâng phẩm giá con người vượt trên kiếp người.
I. CON MỘT CHÚA CHA NHẬP THỂ, LÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ PHI
THỜI GIAN.
1-
Đức
Giê-su là nhân vật lịch sử.
Ngài không phải
là một ý tưởng, hay lý tưởng của nhân loại, như là “Thần Tài” hay “Thần Lành” trong
các tôn giáo nhân gian ; Ngài cũng không phải là nhân vật thần thoại như “Con
Rồng” hay “Tiên Ông” … Nhưng Ngài là con người lịch sử, sinh vào thời điểm đế
quốc La-Mã đang thống trị Israel, dưới triều đại hoàng đế Au-gút-tô và
Qui-rin-tô làm đặc sứ toàn quyền miền Sy-ri-a (x Lc 2,1 : Tin Mừng) ; và Ngài đã bị giết chết
theo lệnh Phi-la-tô làm tổng trấn miền nam nước Do-thái (x Ga 19,12t).
Vậy Chúadạy chúng ta phải biết tùng phục
quyền bính hợp pháp, cụ thể như cha mẹ Ngài phải tuân lệnh chính quyền Roma về
quê quán của mình mà khai tên tuổi (x Lc 2,2 : Tin Mừng), để mỗi người chúng ta phải nên thánh ngay trong môi trường và hoàn
cảnh của mình đang sống, dù không thuận với mình !
2-
Con
Thiên Chúa được sinh ra trong thời gian nhưng lại phi thời gian.
Niên lịch của
nhân loại trước thế kỷ thứ 15 chưa thống nhất :
* Người Ai-Cập, Át-sy-ri ; Ba-by-lon
dùng niên lịch theo các đời vua.
* Người Hy-Lạp lấy ngày tế thần Zeus,
có 4 năm một lần, lần đầu tiên vào năm 776 trước Công nguyên.
* Người Roma tính từ ngày hai ông
Romolus và Remus xây thành Roma vào năm 750
trước Công nguyên.
* Người Do Thái tính từ ngày ông
Ab-ra-ham được Thiên Chúa kêu gọi khoảng 2.000 năm trước Công nguyên.
* Nhiều quốc gia khác thì lấy ….
Mãi đến thế kỷ
thứ 6 (năm 525), thày dòng Denys le Petit cho biết Chúa Giáng Sinh vào năm - 754
theo lịch Ro-ma. Đến đời Đức Giáo hoàng Grégorio XIII (1505-1583) mới quyết
định lấy ngày Chúa Giáng Sinh làm mốc thời gian cho cả thế giới. Nhưng tiếc là thày
Denys le Petit đã tính sai ! Vì vào năm 1912, người ta tìm thấy tấm bia ở
An-ti-ô-ki-a xứ Pi-si-đi-a còn ghi lại rằng : lệnh khai hộ khẩu do ông
Qui-rin-tô khởi xướng và ông Sen-ti-ô hoàn tất vào năm 7 và 6 trước Công
nguyên. Như thế, lịch hiện hành đã tính trễ khoảng 6 – 7 năm.
Dầu sao thì
không có ai biết chính xác Đức Giê-su sinh ra vào ngày tháng nào ! Điều này Chúa
muốn dạy chúng ta :
a-
Ngài là nhân vật lịch sử có thời được sinh ra.
b-
Đồng thời Ngài vẫn là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng
hằng hữu, Ngài không có khởi sinh, không có tận cùng. Do đó việc xác định niên
biểu Sinh Nhật của Ngài, tuy lúc ấy không ai để ý ghi chép lại, nên không biết
chính xác, nhưng chắc chắn Chúa không tạo điều kiện cho ai ghi lại, bởi vì Ngài
không lệ thuộc vào thời gian, đúng với bản tính hằng có của Ngài !
c-
Nhờ Ngài xuất hiện trên dương thế, loài người mới thống
nhất niên lịch, rất cần cho việc giao dịch, làm chuẩn xác mọi vấn đề.
II. NGÀI LÀ MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH.
Thực ra vào thế
kỷ thứ 4, lễ Giáng Sinh mới bắt đầu hình thành, tức là vào năm 350, Đức Giáo hoàng
Julius I chính thức chọn ngày 25/12 là ngày mừng lễ Giáng Sinh. Lý do hoàn cảnh
lúc ấy dân ngoại ồ ạt theo đạo Chúa, nhưng trước đó họ có thói quen cứ đến ngày
25/12 họ đi dự lễ hội mừng ngày sinh của thần Mặt Trời. Do đó Hội Thánh Công
giáo muốn “rửa tội” cho ngày đó bằng cách nói với dân ngoại đã trở lại đạo rằng
: Muốn thờ thần Mặt Trời, thì chính Đức Giê-su là MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH đã đến
viếng thăm nhân loại. (x Lc 1,78)
III. CON THIÊN CHÚA TRỞ NÊN NGHÈO ĐỂ TA ĐƯỢC GIÀU CÓ.
Phúc Âm không
ghi Chúa Giê-su sinh ra trong hang đá, nhưng theo thánh Gius-ti-nô (thế kỷ thứ
2) thì nói Đức Ma-ri-a sinh Chúa Giê-su trong một hang đá. Vào thế kỷ thứ 4,
hoàng đế Công-tăng-ti-nô xây một vương cung thánh đường tại một hang ở Bê-lem,
mà theo truyền thống người ta tin Chúa Giê-su sinh ra tại đó.
Còn việc làm
hang đá ngày nay, được bắt đầu vào thời thánh Phan-xi-cô thành Át-si-si : Lúc
ấy người ta đã tục hoá lễ Giáng Sinh, đáng lẽ vào dịp lễ này người ta phải gia
tăng cầu nguyện, nghe Lời Chúa và chia sẻ, thì họ lại tổ chức tiệc tùng, ăn
uống xa xỉ và đú đỡn với nhau ! Đầu tháng 12 năm 1223, thánh Phan-xi-cô báo
trước cho mọi người là lễ Giáng Sinh năm nay không cử hành tại nhà thờ mà là ở
một nơi khác (không cho biết trước). Mỗi tín hữu đêm ấy cầm đuốc đi theo thánh
nhân vào một khu rừng vắng. Rồi thánh nhân leo lên một triền núi phẳng và cùng
với mọi người dâng Thánh lễ tại đây, ngài giảng một bài rất hùng hồn về cảnh
nghèo nàn của Con Thiên Chúa vào đời, có ý dạy mọi người tránh sống xa xỉ, để
có điều kiện chia sẻ vào những công việc đạo đức, hữu ích cho mọi người. Khi
thánh Phan-xi-cô đang giảng say sưa, thì thình lình Chúa Hài Đồng hiện ra ngay
trên bàn thờ, nằm giơ hai tay, hai chân như muốn đòi thánh nhân bế. Từ điển
tích này, người ta đặt tượng Chúa Hài Đồng nơi hang đá không phải là một cậu bé
được quấn tã nằm ngủ ngon, mà là một Hài
Nhi “giơ bốn vó !”
Vậy “làm sao chúng ta phải trở nên giàu có như
Đức Giê-su, mà vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có
nhờ sự nghèo khó của Ngài !” (2Cr 8,9) Ta phải trở nên giàu có như Đức
Giê-su để có thêm điều kiện làm cho đồng loại được giàu có về Đức Tin và của
cải, còn ta trở nên nghèo khó giống Đức Giê-su, đến nỗi Ngài không có cục đá để
gối đầu ! (x Lc 9,58)
IV. CON THIÊN CHÚA ĐẾN NÂNG PHẨM GIÁ CON NGƯỜI VƯỢT TRÊN
MỌI LOÀI THỤ TẠO.
* Cũng vào hoàn cảnh ở thế kỷ thứ 4 (năm 440), nhóm
Ma-ni-sê chủ trương khinh chê thân xác con người, vì đó là nguồn gốc
của tội lỗi !
* Rồi đến năm
448, nhóm “Độc Tính” dạy rằng : Chúa Giê-su chỉ có một bản tính Thiên Chúa,
thân xác chỉ là “ốc mượn hồn”, con người không làm được gì tốt, phủ nhận sự
cộng tác của con người trong chương trình Chúa cứu độ, mà Thiên Chúa hoàn toàn
làm hết cho kẻ tin Ngài !
Để chống lại hai lạc thuyết trên,
qua mầu nhiệm Giáng Sinh Hội
Thánh dạy ta phải xác tín rằng :
1- Mỗi người được
Chúa ở cùng, họ là Đền Thờ đích thực của Thiên Chúa. (1Cr 3,16)
2- Khi tạo dựng
con người, Thiên Chúa không hỏi ý kiến họ, vì chưa có họ để hỏi. Nhưng khi cứu
độ con người, thì Thiên Chúa tôn trọng họ, nên Ngài hỏi ý con người ! (thánh
Au-gút-ti-nô) [x Mc 2,1-12]
3- Khi tạo dựng
A-đam I, A-đam cuối cùng (Đức Giê-su), Thiên Chúa đã khắc ghi hình ảnh mình
trong đó, qua lời tiền Tin Mừng Chúa đã hứa : “Miêu duệ người nữ đạp nát đầu rắn” (St 3,15). Do vậy, A-đam cuối
cùng đã lãnh nhận vai trò và tên A-đam I : Vì A-đam I làm mất những gì tốt đẹp đã
được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài (x St 1,26). A-đam trước đã khởi
đầu, nhưng đi vào sự chết ; A-đam cuối cùng sống vinh phúc muôn đời. Do đó,
người sau (Giê-su A-đam cuối cùng) mới đích thực là người đầu, như chính Ngài
đã nói về mình : “Ta là đầu và là cuối’’
(Kh 1,17) : Từ khởi sự cho đến hoàn tất, đều nhờ bởi Chúa Giê-su.
4- “Adam cũ được dựng nên bởi đất trinh (đất
chưa ai canh tác), còn Adam cuối cùng thì được sinh ra bởi Mẹ Đồng Trinh”
(Thánh I-rê-nê). Thánh Gioan nói : “Những
ai đón nhận được Ngài, thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa, ấy là cho
những kẻ tin vào danh Ngài” (Ga 1,12). Vì vậy mà thánh Gioan Kim Khẩu nói : “Thiên
Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Và Chúa “không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất,
đùa giỡn với con cái loài người” (Cn 8,30-31).
Nhưng ai muốn
được những ơn trọng đại trên, buộc họ phải sống trong Hội Thánh Chúa Ki-tô. Vì
Chúa chỉ muốn cứu loài người trong một đoàn chiên và một Chủ chiên (x Ga
10,1-18). Chính vì thế mà giáo huấn Công Đồng Vat. II trong Hiến Chế Ánh Sáng
Muôn Dân số 32 dạy : “Ngôi Lời nhập thể
và tình liên đới nhân loại, Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài
người cách riêng rẽ thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn quy tụ họ thành một dân tộc,
để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự Ngài trong thánh thiện”
.
Câu chuyện Đường Tăng (trích trong
“Phẩm Giá Của Con Người” của Nguyễn Thái Hợp :
“Đường Tăng
Huyền Trang là một nhân vật lịch sử. Một tăng sĩ dũng cảm, thông minh, tinh tế
và là một học giả uyên thâm kinh điển Phật giáo. Ông là một học giả thiên tài
và nghiêm túc đã dịch rất nhiều kinh sách Phật giáo ra chữ Hán. Ông đã ghi chép
cẩn thận những gì mắt thấy tai nghe trên đường đi thành tập “Tây Du Ký”. Đây là một tài liệu giá trị về xã hội, địa
dư, tôn giáo và lịch sử của Ấn-Độ thời ấy. Nhưng chẳng mấy ai đọc “Tây Du Ký”
của Huyền Trang.
Ngô Thừa Ân
không sử dụng tài liệu lịch sử của Huyền Trang, mà lại hư cấu một “Tây Du Ký”
khác. Dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân, Huyền Trang học giả biến thành một Đường
Tăng khù khờ, cả tin, hơi u mê và nhiều khi từ bi không đúng chỗ. Tuy nhiên,
thầy trò Huyền Trang Tam Tạng của Ngô Thừa Ân lại được nhiều người Á Đông biết
đến và say mê, vượt rất xa tác phẩm và nhân vật Huyền Trang chính thức.
Vào đầu thập
niên 90, Trương Quốc Dũng đã hư cấu một Huyền Trang khác trong truyện thật ngắn
mang tựa đề “Đường Tăng”. Trong lời bạt của cuốn sách “40 truyện rất ngắn”, nhà
phê bình Lê Ngọc Trà nhận định sắc nét : “Truyện Đường Tăng đầy những câu văn
ngắn có hồn. Chữ ít nhưng dường như chữ nào cũng sống, cũng có một âm điệu tình
cảm, một không gian…”. Xin được phép trích nguyên văn truyện thật ngắn này, một
trong hai truyện được giải nhất trong cuộc thi truyện rất ngắn 1993-1994 (dưới
1.000 chữ) của bán nguyệt san Thế Giới Mới :
“Đêm cuối cuộc trường chinh đầy gian
khổ, ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật, đường Tăng trằn trọc không
sao ngủ được. Suốt cuộc đời tâm nguyện tới cõi này, giờ đây khi sắp trút bỏ
kiếp người, ông bỗng thấy lòng day dứt.
“Chiều nay, thân thể Đường Tăng đã rã
rời, đầu óc đầy mộng mị, tay biếng lần tràng hạt. Tâm linh như muốn níu chân
dừng lại. Máu ông nhức nhối thấm lần qua tim, cứa vào qúa khứ đau xé. Ông nhớ tới
những người sinh thành ra mình. Tình cha, huyết mẹ tạo nên mà bao nhiêu năm nay
ông không một lần thắp hương, không một lần nhắc nhở.
“Chặng đường dài tới đất Phật khiến
trái tim ông dần chai sạn. ông đã quá nhiều lần phải lạy lục, cầu khẩn các thần
lớn bé, đã qua nhiều lần dẫm đạp lên xác máu yêu ma xa gần, chỉ với một mục
đích : mau thành chánh qủa. ông thương người. Nhưng đêm nay, trước ranh giới
cuối cùng của cõi Người và Phật, ông chợt hiểu ra cội rễ của tình thương ấy.
Mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính toán như xây thêm cho mình một
bậc thang tới Phật đài.
“Nhiều lần Đường Tăng đã tự hỏi tại
sao nước mắt mình ngày càng lạnh giá. Giờ đây ông thầm biết, trên con đường
thỉnh kinh về cứu rỗi người đời, ông đã dần dần xa lạ với con người.
“Ông trở mình, thở dài : không là
người, ta sẽ là ai? Yêu quái cản đường, biết bao kẻ chính từ trên đây xuống,
pháp thuật vô biên, ác nghiệt vô cùng. Ta nhập vào chốn ấy biết rồi thành Phật
hay thành ma ?
“Đường Tăng chợt nhói trong tim. Ông
khẽ rên lên, hai tay ôm ngực. Mở mắt thấy các đồ đệ đang đứng bên giường nhìn
ông âu lo. Cả ba hình như đều không ngủ.
“Đường Tăng thở hắt : “Không sao đâu, ta chỉ chợt nhớ tới ngày xưa”.
Nói rồi lại nhắm mắt.
Nghe tiếng Ngộ Không : “Xin thầy đừng tự dối lòng. Thầy đang nhớ cả
kiếp người – Đường Tăng rùng mình khi giọng Ngộ Không quá u uất – Con từ đá
sinh ra. Coi thường cả thần thánh, yêu ma, chỉ mong được thành người. Thầy đã
là người lại tự bỏ mình đi tìm hồn phách khác. Đêm nay sao khỏi xót xa”.
“Bát Giới cười khẽ : “Làm người có gì vui. Chúng ta đã dốc lòng
theo đạo, ngày mai được lên chốn thần tiên, sung sướng biết bao nhiêu. Thầy
đừng luyến tiếc.”
“Sa Tăng an ủi : “Thầy trò mình sắp hóa Phật, mang đạo xuống khai sáng cho loài người.
Công qủa vĩ đại lắm !”
“Đường Tăng lắc đầu, nằm im hồi lâu,
hai tay vẫn đặt lên tim, mắt vẫn nhắm, nước mắt trào ra ấm nóng lại. Rồi như
trăn trối : “Ta ước gì đêm nay đừng sáng.
Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ Không ơi ! Một đời con mong được thành
người thì bị ép phải theo ta để thành Phật. Bát Giới tự dối mình, giác ngộ thật ra chỉ là đi tìm một
chốn hoan lạc mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang tưởng khác mà lại hy
vọng khai sáng. Còn ta ? Không còn là
người, không phải là người thì làm sao đồng cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con
người.”
“Ngộ Không sụp xuống nắm tay thầy,
ngẹn ngào : “Thầy đã nhận ra chân lý.
Nhưng chậm quá rồi.”
Truyện Đường
Tăng cho ta phải suy nghĩ : Đường Tăng mong thành Phật, khi sắp thành Phật lại
buồn vì không còn là người ! Mà không là người làm sao cứu được người ? Như vậy
Đường Tăng thua xa Chúa Giê-su, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người. “Ngài đã trải qua thử thách và đau khổ, nên
Ngài có thể cứu giúp những ai bị thử thách !” (Dt 2,18) Và không ai có thể
lên cõi Phúc (lên Trời), ngoại trừ “Đấng
từ Trời mà xuống, để ai tin vào Ngài thì được sống hạnh phúc đời đời !” (Ga
3,13.15) Như vậy, muốn cứu ai ta phải có hai điều kiện :
-
Sống kiếp người giống như đồng loại ta muốn cứu, để ta cảm
nghiệm được hoàn cảnh đau khổ của họ. Đó là lý do Đấng Cứu Thế muốn làm người
như chúng ta.
Nếu Thiên Chúa
ngồi trên trời sai thiên thần đến Việt Nam, xem tình hình dân chúng sống
ra sao, khi thiên thần trở về thưa với Chúa : “Lạy Chúa, “đầy tớ nhân dân” rất
giàu có, trái lại nhân dân làm chủ lại quá nghèo khổ, bo bo không có đủ mà ăn.
Chúa thắc mắc hỏi : “Tại sao thế, Ta không hiểu, đầy tớ lại giàu hơn chủ nghĩa
là sao?” Thiên thần thưa : “Đầy tớ nhân dân giàu lắm, họ rửa tiền bằng cách đi
xe hơi và uống bia ôm. Còn nhân dân làm chủ thì không ai làm chủ một tấc đất,
họ chỉ có quyền sử dụng, nên họ phải đi xe ôm và uống bia hơi!”
Nghe thế, Chúa lắc
đầu : “Ta phải xuống xem sao, chứ nghe báo cáo thế thì Tây nó cũng chẳng hiểu
nổi!”
-
Như vậy ta phải mạnh hơn người khác, mới cứu được họ. Do
đó, Đấng Cứu Thế vừa là người, vừa là Thiên Chúa toàn năng, trong hoàn vũ này
không ai mạnh bằng Ngài khi ra tay cứu ta.
Nhờ ngòi bút
của ông Luca, cho ta lưu ý hai lần ông viết “Hôm nay”, đặc biệt ở đầu và cuối cuộc đời Đức
Giê-su :
-
Ngày Con Đấng Tối Cao giáng trần, Thiên thần nói : “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta, Người là
Đấng Ki-tô, là Đức Chúa” (Lc 2,11 : Đáp ca).
-
Ngày Con Đấng Tối Cao lìa bỏ trần thế về Trời, Ngài nói với
tên trộm biết sám hối tội mình và xin theo Ngài : “Hôm nay, ngươi ở trên Thiên Đàng với Ta” (Lc 23.43).
Đúng với Lời thiên thần nói với các chú mục đồng : “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại : Hôm nay, một Đấng Cứu
Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”
(Lc 2,11 : Tung Hô Tin Mừng).
Kinh Thánh viết
như thế, muốn nhấn mạnh rằng : Chúa Giê-su rất muốn đến với chúng ta từng ngày hôm nay trong suốt đời
ta. Ngài không hẹn ta vào ngày khác đến gặp Ngài. Do đó, nếu mỗi người chúng ta
hôm nay rộng mở cửa tâm
hồn đón Chúa Giê-su Phục Sinh, khi ta dự Thánh lễ, thì cho dù ngày hôm nay ta còn vương
vấn tội lỗi mà biết sám hối, nếu Chúa lại gọi ta hôm nay ra khỏi thế gian này, chắc chắn Chúa
cũng đưa ta vào Thiên Đàng ngay hôm nay, bởi vì ta không đến nỗi tồi tệ như tên trộm lành
suốt đời chỉ chôm chỉa của người khác. Như thế ta không phải xuống luyện tội
một thời gian để thanh tẩy mới được vào Thiên Đàng, giống như nhiều người phải
thanh tẩy nơi luyện tội. Vả lại Chúa Giê-su cũng đã hứa : “Ai nghe Lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời và khỏi
phải đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào cõi sống” (Ga 5,24).
Chính vì vậy, mà thánh Phao-lô nói : “Bây
giờ án phạt không có nữa cho những ai ở trong Đức Ki-tô Giê-su” (Rm 8,1),
nên “nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì
tuy thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng làm cho anh em
được sống, vì anh em đã được trở nên công chính” (Rm 8,10).
Nhất là ta dự Lễ
trọn vẹn : nghe Lời và rước lễ là cách chắn chắn được Chúa ở cùng, Ngài giúp ta
thắng satan, thắng tội lỗi, thắng thần chết, hơn xưa Chúa chỉ ở cùng ông
Ghê-đê-ôn qua dấu chỉ “tấm lông chiên ông
phơi ngoài sân đẫm ướt sương” (x Qa/Tl 6-7), nhờ thế mà ông chiến thắng
quân Ma-đi-an (x Is 9,1-6 : Bài đọc I).
Vậy ngày hôm
nay ta dự Lễ là được Chúa ở cùng, chắc chắn Ngài cho ta mạnh sức hơn ông
Ghê-đê-on, để “Ngài giúp ta từ bỏ lối
sống vô luân, hầu ta xứng đáng là dân riêng của Chúa, một dân hăng say làm việc
thiện” (Tt 2,11-14 : Bài đọc II).
THUỘC LÒNG.
Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời. (Ga 3,16)
BÀI SUY NIỆM 2 :
CUỘC
ĐỜI LÀ HIẾN TẾ CỨU ĐỘ
Thiên Chúa Ngôi
Hai, Ngài là Đấng Hằng Hữu và Toàn Năng, nhưng Ngài chỉ trở thành Tư Tế khi
được sinh ra làm người và trở thành của lễ dâng Chúa Cha sinh ơn cứu độ cho
loài người, đúng với ý nghĩa danh Giê-su (Thiên Chúa Cứu Độ) đã được sứ thần
Gabriel ra lệnh cho Đức Maria và ông Giu-se đặt cho Ngài (x Lc 1,31 ; Mt
1,18-25).
Ta biết Đức
Giê-su hoàn tất Hy Lễ mới của Ngài :
§ Khởi đi từ lúc
nhập thể, đỉnh cao nơi thập giá.
§ Để mạc khải cho
“kẻ bé mọn” sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
§ Để tạo nên một
dân riêng thoát ách Luật, chuyên lo việc lành.
§ Để ta theo
gương Đức Ma-ri-a cộng tác với Đức Giê-su hoàn tất công trình sáng tạo mà Chúa
Cha đã khởi sự.
§ Con Chúa đến
qua Phụng Vụ Hội Thánh cử hành để hoàn tất việc tạo dựng con người.
1/ ĐỨC GIÊ-SU VÂNG LỜI SỐNG NGHÈO TỪ LÚC NHẬP THỂ, ĐỈNH
CAO LÀ THẬP GIÁ.
ò
Ngày Đức Giê-su vào trần gian, cha mẹ Ngài phải vâng lời
hoàng đế Ro-ma về Bê-lem, thành của vua Đa-vít mà đăng ký hộ khẩu, trong cảnh
nghèo khổ : Không kiếm được chỗ trú thân trong thành, nên cha mẹ Hài Nhi phải
lấy tã vấn và đặt nằm trong máng cỏ ! (x Lc 2,7). Phải chăng người ta coi Ngài
như thân sâu bọ nằm trong cỏ, dựa vào lời ngôn sứ I-sai-a đã nói : “Dáng vẻ của Ngài không còn thuộc hạng người
ta” (Is 52,14) ; “Không duyên dáng, không oai vệ bắt chúng tôi
phải để ý” (Is 53,2).
ò
Nhưng còn tệ hơn, ngày Đức Giê-su lìa đời, Ngài lại phải
vâng lời quyền bính Ro-ma, tại thành của vua Đa-vít, để lãnh án tử, chết nhục
trên thập gía ! Rồi được ông Giu-se quê tại Arimathia và một môn đệ bí mật xin
ông Phi-la-tô đưa xác Ngài đem đi liệm táng trong mồ ! (x Ga 19,38t) Đúng như
lời ngôn sứ I-sai-a đã nói : “Ngài bị
khinh khi, và là đồ phế bỏ của người đời!” (Is 53,3)
2/ ĐỂ MẠC KHẢI CHO “KẺ BÉ MỌN’’ ĐƯỜNG LỐI KHÔN NGOAN CỦA
THIÊN CHÚA.
ò
Ngày Ngôi Hai giáng trần, Ngài sai thiên thần đến mạc khải
cho các chú mục đồng, là những “kẻ bé mọn” về dấu chỉ: “Một trẻ vấn tã nằm trong máng cỏ”,để nhận ra Đấng Cứu Thế. Mà thực, chỉ có
lũ trẻ ranh con này được tin mới tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su, còn hạng người
tự mãn là khôn ngoan thông thái chỉ mở Sách Thánh tra tầm nơi sinh của Hài Nhi,
Vua Do-Thái, để chỉ điểm cho bạo chúa Hê-rô-đê
ra lệnh chém giết, chứ nào họ có đến thờ lạy ?! (x Mt 2)
ò
Bởi vậy, cái chết của Đức Giê-su trên thập gía là cớ vấp
phạm cho người Do-Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại ; chỉ có kẻ bé mọn như
ông Phao-lô mới được Đức Giê-su mạc khải cho biết đó là đường lối khôn ngoan
của Thiên Chúa. (x 1Cr 1,17)
3/ ĐỂ TẠO NÊN MỘT DÂN RIÊNG THOÁT ÁCH LỀ LUẬT, CHUYÊN LO
VIỆC LÀNH.
Ngôn sứ I-sai-a
trong Bài đọc I đã cho ta biết trước gía trị ơn cứu độ do Đấng Cứu Thế thực
hiện : “Ngài đập tan cái ách đè trên vai
dân…” (Is 9,3t). Đây chính là cái ách, cái gánh nặng, cái roi của Lề Luật
đặt trên nhân loại, vì “Luật chỉ làm cho
ta nhận biết tội’’ (Rm 7,7), và nó “giam
ta trong tội’’ (Gl 3,22). Chỉ có Đức Giê-su giải phóng cho “kẻ bé mọn”
thoát án phạt của Lề Luật (x Gl 3,24 và Mt 11,25-30). Ai được Chúa ở cùng, người
ấy được Ngài ủng hộ và bênh đỡ thắng sự ác, còn hơn xưa Thiên Chúa ủng hộ ông
Ghê-đê-ôn thắng quân Ma-đi-an để bảo vệ dân Ngài (x Tp 6). Bởi vì Ngài vừa là
Đấng cao cả nhất lại trở nên thấp hèn nhất ! Ngài vừa khác ta, vì Ngài là Thiên
Chúa, Ngài lại giống ta, vì Ngài là người như mọi người, ngoại trừ tội lỗi!
- Ông Emerson
nói : “Muốn quan sát một khu vực, ta phải
leo lên nơi cao nhất, và còn phải xuống nơi thấp nhất.” Ví dụ : Một người
muốn tham quan một địa danh để biết tường tận nơi đó, thì người ấy phải ngồi
trên máy bay nhìn xuống, đồng thời họ còn phải lội qua từng dòng suối, xuống
tận thung lũng sâu thẳm!
- Còn ông
P.Tillich nói : “Muốn hiểu ai, ta phải
vừa giống họ, lại vừa khác họ.”
Vậy chỉ có Đức
Giê-su hiểu hết những nhu cầu, những khát vọng của ta, vì Ngài cao cả không ai
bằng, cũng không ai hạ mình xuống thấp nhất như Ngài : Ngài vốn dĩ là Thiên
Chúa toàn năng, lại trở nên như người nô lệ để phục vụ, thậm chí người ta liệt
Ngài vào hạng tội nhân phải loại trừ!
Để minh chứng
Ngài giống ta để hiểu ta nhất, làm thỏa mãn khát vọng nên thánh của ta, thánh
Phao-lô nói : “Ân sủng của Thiên Chúa đã
được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. … Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta
trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa
vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.Vì chúng
ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính,
và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân
hăng say làm việc thiện.” (Tt 2,11-14 : Bài đọc II).
4- TA THEO GƯƠNG ĐỨC MA-RI-A CỘNG TÁC
VỚI ĐỨC GIÊ-SU ĐỂ HOÀN TẤT CÔNG TRÌNHSÁNG TẠO
CỦA CHÚA CHA.
* Theo gương Đức Ma-ri-a : Khi các chú
mục đồng vào thành Bê-lem, họ thuật lại tất cả các lời thiên thần loan báo, làm
mọi người kinh ngạc – một thái độ nghi ngờ chưa tin – chỉ riêng Đức Ma-ri-a thì
giữ kỹ các điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng (x Lc 2,15-20). Thái độ
của Đức Ma-ri-a trước ý định của Thiên Chúa đã trở thành mẫu mực cho mọi thành
phần trong Hội Thánh, để nhờ nhẫm đi nhắc lại Lời Chúa suốt đêm ngày, họ làm gì
cũng thành công ! (x Tv 1,2-3)
* Cộng tác với Đức Giê-su ngay “Hôm
Nay’’
: Trong Tin Mừng của thánh sử Lu-ca, ông đã dùng 8 lần thuật ngữ “HÔM NAY’’ để
nói về ơn cứu độ Chúa ban:
1.
Hôm nay Đấng Cứu Thế sinh ra (x Lc 2,11).
2.
Hôm nay Cha sinh ra Con (x Lc 3,22).
3.
Hôm nay ứng nghiệm điều tai các ngươi vừa nghe (x Lc
4,21).
4.
Hôm nay chúng ta được thấy điều kỳ lạ : Con Người có
quyền tha tội (x Lc 5,26).
5.
Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật,
ngày thứ ba tôi hoàn tất (x Lc
13,32).
6.
Hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông Gia-kêu (x Lc 19,5).
7.
Hôm nay nhà này được ơn cứu độ (x Lc 19,9).
8.
Hôm nay anh ở trên Thiên Đàng với tôi (x Lc 23,43).
Như thế, thời
Cựu Ước, Chúa đã tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày, ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi (x St
1). Đó là dấu chỉ trong thời Tân Ước, vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Đức Giê-su
được nghỉ ngơi (an táng trong mộ), và Ngày Thứ Tám, Ngài sống lại, thì 8 lần
“Hôm Nay” trong đời Đức Giê-su, Ngài lấy cả sự ác làm hoàn tất việc tạo dựng mà
Chúa Cha đã khởi sự. Cụ thể Ngài đưa anh trộm lành dâng lên Chúa Cha để tôn
vinh Người. Đúng là như lời thiên thần báo cho các mục đồng : “Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng
đại : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavid, Người
là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa” (Lc 2,11 : Tung Hô Tin Mừng).
(Ta lưu ý : Trong Tin
Mừng của Lu-ca, còn nói đến hai lần “Hôm nay” nữa, nhưng không được kể là HÔM
NAY CHÚA BAN ƠN, vì tác gỉa nói đến hình phạt đối với người từ chối Đức Giê-su
: Lc 19,42 : Ngài trách
người Do-Thái hôm nay không biết đón
nhận phúc bình an ! Lc 22,34 : Ngài báo
trước ông Phê-rô sẽ chối Thầy : “Hôm nay gà sẽ không gáy cho đến lúc ngươi chối ba lần là
không biết Ta” –).
5- CON CHÚA ĐẾN QUA PHỤNG VỤ HỘI THÁNH CỬ HÀNH ĐỂ HOÀN TẤT
VIỆC TẠO DỰNG LOÀI NGƯỜI.
Nhờ tình thương
và quyền năng lạ lùng Con Thiên Chúa đã thực hiện như đã đề cập ở trên, làm cho
các chú mục đồng cùng với các thiên thần chung lời tôn vinh ngợi khen Thiên
Chúa : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (x Lc 2,14.20).
Lời tôn vinh
trên, đêm hôm nay mọi Ki-tô hữu đều cất lời cùng chung tiếng hát với các thiên
thần, để nối dài và mở rộng niềm vui ơn cứu độ đã đựơc công bố cách đây trên
2.000 năm, và còn đang tiếp tục thực hiện cho tới ngày Chúa lại đến, để tập họp
thêm những người thiện tâm theo Ngài đi vào vinh quang bất diệt !
Vì khi tạo dựng
A-đam thứ I, A-đam cuối cùng (Đức Giê-su) đã khắc ghi hình ảnh mình trong đó.
Vì vậy A-đam cuối cùng lãnh nhận vai trò và tên của A-đam thứ I đã bỏ mất những
gì tốt đẹp Thiên Chúa ban, nhất là được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài (x St
1,26). A-đam đầu, A-đam cuối : Người trước đã có khởi đầu, Người sau sẽ tồn tại
mãi mãi, vì Người sau mới thực là Người đầu, như chính Ngài đã nói về mình “Ta là Đầu và là cùng đích” (x Thánh
Phê-rô Kim Khẩu – Bài Giảng 117).
Đức Ki-tô
Giê-su xuất hiện không phải một lần, mà Ngài cứ muốn đến lần nữa, lần sau huy
hoàng hơn lần trước. Thực vậy, lần I Ngài đến chịu trăm nghìn đau khổ, còn lần
sau Ngài đến biểu lộ vương quyền của Thiên Chúa, vì nơi bản tính Thiên Chúa,
hai lần Ngài được sinh ra : Lần I sinh ra bởi Thiên Chúa từ trước muôn đời, lần
II được sinh ra do quyền năng Chúa Thánh Thần, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.
Ngài đến âm thầm như sương xuống tấm lông chiên của ông Ghê-đê-on, và lần II
Hội Thánh sinh Ngài qua Bí tích Thánh Thể, như sương từ trời xuống lần II trên
mảnh đất ông Ghê-đê-on phơi tấm lông
chiên, mà tấm lông chiên không đẫm ướt sương! Đó là dấu chỉ Chúa thúc bách ông
Ghê-đê-on xuất quân chiến thắng kẻ địch Ma-đi-an giải phóng cho dân tộc ! (x
Tp/Qa 6,36t).
Lần
I, Đức Ki-tô Giê-su đến được Mẹ bọc tã đặt trong máng cỏ (x Lc 2,7) ; lần II
Ngài đến trong bộ áo cẩm bào muôn ánh hào quang.
Lần
I, Đức Giê-su đến vác thập giá mà chẳng hề nhuốc hổ, lần II vào ngày Quang Lâm,
Ngài đến trong vinh quang, có các đạo binh thiên thần hộ tống.
Lần
I, Ngài đến với ta qua Bí tích Thánh Tẩy, để ta được tháp vào Ngài như cành
tháp vào cây, cho ta trở thành chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Giê-su
Phục Sinh, còn lần II Ngài đến với ta qua Bí tích Thánh Thể, để ta được sống
bằng sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6,57), bảo đảm cho sự sống lại, một
sự sống dồi dào và vĩnh cửu (x Ga 6,54 ; 10,10).
Như thế người
ta được sinh ra lần I theo ý muốn xác thịt của cha mẹ, thì loài người được nhân
lên và chia rộng ra ; còn lần II ta được sinh ra qua Bí tích Khai Tâm bởi ý
muốn của Thiên Chúa, trong Chúa Giê-su (x Cv 2,38), thì ta lại được thu họp
trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Ki-tô là Hội Thánh, để ta vừa được sống bởi
Chúa Giê-su, vừa được sống dồi dào bởi các chi thể trong Thân Mình Đức Ki-tô
thông chia cho, đó là “áo cưới của Hiền Thê Tân Lang Giêsu”, thánh Gioan nói đó
chính là “áo trúc bâu, là công đức của
các thánh, để được mời vào dự tiệc cưới Con Chiên trong ngày cánh chung” (x Kh 19,7-8).
Vậy chúng ta
hãy trông chờ Đức Giê-su đến lần II quan trọng hơn lần I và bổ túc cho lần I,
hầu lần II, Ngài cho chúng ta cùng cất tiếng tung hô : “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta, Người là Đấng Ki-tô, là
Đức Chúa” (Lc 2,11 : Đáp ca). Ta “hát
lên mừng Chúa một bài ca mới,hát lên mừng Chúa hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên
mừng Chúa chúc tụng Thánh Danh. Ngày qua
ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ” (Tv 96/95,1-2).
THUỘC LÒNG.
Ngày hôm nay, ước gì
anh em nghe tiếng Chúa. (Tv 95/94,7)