BÀI GIẢNG
PHẢI CÓ LÒNG MẾN
MỚI ĐÓN
NHẬN ĐƯỢC THIÊN CHÚA CỨU ĐỘ
Trong Tin Mừng hôm nay (Mt
11,16-19), Đức Giê-su trách nhiều người thờ ơ lãnh đạm đối với công việc của
Ngài, họ coi việc của Ngài như việc trẻ con chơi đùa với nhau, như chúng nói: “Tụi tôi thổi sáo, sao các bạn không nhảy múa
; chúng tôi hát bài đưa đám, sao các bạn không đấm ngực than khóc” (Mt
11,17: Tin Mừng).
Những người thờ ơ lãnh đạm đối với
chân lý, thì đánh giá người khác theo thiên kiến của họ. Ví như người cao thì
chê kẻ lùn: “Nhất lé, nhì lùn tam hô, tứ sún” ; người lùn thì chê kẻ cao: “Dài
lưng tốn vải, ăn no lại nằm”. Trong khi đó nhiều người Do Thái thấy ông Gioan
Tẩy Giả không ăn uống, thì họ bảo: “Ông
ta bị quỷ ám!” (Mt 11,18: Tin Mừng) Chứ họ không nhận ra đó là dấu ông kêu
gọi mọi người hãy ăn chay, hãm mình, sám hối tội lỗi và chia sẻ của cải cho
đồng loại để đón Đấng Cứu Thế đến ; Con Người (Đức Giê-su) đến ăn uống như mọi
người, thì họ lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu,
bạn bè với phường tội lỗi” (Mt 11,19: Tin Mừng). Chứ chúng không nhận ra đó
là dấu Chúa loan báo Tin Mừng cứu độ: Đấng Thiên Chúa hứa đến cứu độ dân, Ngài
đang ở giữa mọi người, Ngài đồng bàn với hết mọi loại người, là dấu Ngài đang
thực hiện cuộc giao hòa giữa những kẻ có tội với Thiên Chúa Tình Yêu.
Vậy chỉ ai có lòng mến mới đón
nhận được Ngài, mới có khả năng hiểu và thi hành được Lời Ngài, như Đức Giê-su
nói: “Ai mến Ta, thì giữ Lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và Chúng Ta sẽ đến
với nó và sẽ đặt chỗ ở nơi mình nó” (Ga 14,23).
Người đời thường nói: “Vô tri bất mộ”, có nghĩa là không hiểu
biết thì không yêu mến ; đối với Đức Giê-su thì ngược lại: “Vô mộ
bất tri”, có nghĩa là không yêu mến Ngài, thì không hiểu Lời Ngài, nên
không thực hành Lời Ngài dạy. Lý do ta phải mến Chúa trước là vì: “Ngài dạy ta những điều bổ ích, Ngài hướng
dẫn ta trên mọi nẻo đường đời, ai lưu ý đến Lời của Ngài, thì sự bình an tuôn
đến chan hòa như dòng sông và được trở nên người công chính tuyệt vời. Chúa lại
ban cho dòng dõi đông đúc hằng hà sa số, được lưu danh muôn thuở, chẳng khi nào
Chúa làm ngơ nhắm mắt, không quan tâm chăm sóc ta” (Is 48,17-19: Bài đọc).
Thánh Phao-lô, trong đời phục vụ
của ông, do mãnh lực tình yêu Đức Ki-tô thúc bách (x 2Cr 5,14).
Bởi thế thánh Augustin nói: “Con người được lôi kéo
đến cùng Đức Ki-tô khi lấy làm vui sướng, vì yêu mến sự thật, vui sướng vì được
hạnh phúc, vui sướng vì đức công chính, vui sướng vì sự sống đời đời: Tất cả là
Đức Ki-tô.
“Vậy phải chăng các giác quan của thân xác, có những thích thú của
chúng, mà tâm hồn lại không được có những thích thú của mình ư? Nếu tâm hồn
không có những thích thú của mình, thì tại sao lại nói: “Phàm nhân tìm bóng Ngài trú ẩn, họ được no
say yến tiệc Nhà Ngài, nơi suối hoan lạc Ngài cho hưởng thỏa thuê, Ngài quả là
nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng”.
“Hãy cho tôi một người biết yêu mến, người ấy sẽ cảm nhận được điều tôi
nói. Hãy cho tôi một người đang khao khát, hãy cho tôi một người đang đói, hãy
cho tôi một người đang dẫn bước trong cuộc lữ hành cô đơn và đang mong mỏi khao
khát tới nguồn suối quê hương vĩnh cửu. Hãy cho tôi một người như thế, người ấy
sẽ hiểu được tôi muốn nói gì. Còn nếu tôi nói với một kẻ lạnh lùng, người ấy sẽ
không hiểu được điều tôi nói, họ chỉ chép miệng: “Nói gì vậy ?”
“Giơ cành lá xanh cho con chiên, bạn sẽ lôi kéo được nó. Chìa hạt dẻ cho
đứa trẻ con, nó sẽ bị lôi kéo. Bị lôi kéo đi đâu nó chạy tới đó. Nó bị lôi kéo
vì nó yêu thích, nó bị lôi kéo mà thân xác không hề hấn gì ; nó bị lôi kéo vì
lòng nó yêu mến, vương vấn. Vậy nếu những ai vui sướng, thích thú trần gian như
vừa kể trên, còn có sức lôi kéo khi được bày tỏ ra trước mắt những người yêu
thích nó, đúng như câu nói: “Ai mà chẳng bị điều mình yêu thích lôi kéo”, thì
không lẽ Đức Ki-tô là Đấng đã được Chúa Cha mạc khải lại không có sức lôi kéo
sao ? Thử hỏi khát vọng mãnh liệt nhất
của linh hồn lại không phải là chân lý hay sao ? Nếu vậy,linh hồn phải có một
thứ miệng biết thèm ăn, một thứ cổ họng lành
mạnh để nhận ra cái gì là thật, vì điều linh hồn muốn ăn, muốn uống, đó
là Đức Khôn Ngoan, là sự sống vĩnh cửu”.
Ta biết Chúa luôn đứng trước cửa
nhà tâm hồn mỗi người, Ngài gõ cửa, ai mở, Ngài vào dùng bữa với nó, nó với
Ngài (Kh 3,2). Ai sẵn sàng mở cửa lòng đón Ngài, phải là người có tâm hồn khao
khát chân lý, như ngôn sứ Isaia nói: “Hồn
chúng con khát vọng Thánh Danh và ước mong tưởng nhớ đến Ngài. Suốt đêm trường,
hồn con khao khát Chúa, trong thâm tâm, những kiếm tìm khắc khoải.Khi Chúa thực
thi quyết định của mình khắp năm châu, người bốn bể học biết đường công chính.
Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài cho chúng con được an cư lạc nghiệp, vì hết mọi việc chúng
con làm đều do Ngài thực hiện cho chúng con.” (Is 26,8b-9.12).
Vì thế:
Ông Kierkegaard nói:
“Mọi vấn đề ăn thua với cuộc sống hệ tại
lòng yêu mến, tìm hiểu về vấn đề gì mà không yêu mến, thì không biết gì cả!”
Thánh Tô-ma Tiến sĩ
nói: “Biết mà học không bằng hiểu mà học,
hiểu mà học không bằng yêu mến mà học”.
Thánh Augustin nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đấy hết khó nhọc, giả
như có khó nhọc lại yêu chính sự khó nhọc đó”.
Thánh Gioan Maria
Vianey nói: “Thế giới sẽ thuộc về tay ai
biết yêu mến”.
Thánh Phao-lô nhấn
mạnh: “Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Đức Mến
tồn tại muôn đời” (1 Cr 13,13).
Cuộc đời phục vụ của Đức Giê-su
luôn luôn bị thúc đẩy bởi lòng mến, lòng mến ấy đã bộc lộ qua hai lần Ngài nói:
“Tôi khát” :
-
Bắt đầu cuộc đời lên đường đi rao giảng khắp
nơi, Ngài ngồi bên bờ giếng Gia-cóp nói với người phụ nữ miền Samari: “Tôi
khát, chị có nước cho tôi uống ?” Rồi Ngài giải thích cho chị: “Ai uống nước giếng này còn phải khát, nước
của tôi ban ai uống không bao giờ còn phải khát” (x Ga 4).
-
Vào
cuối đời của Ngài khi bị treo trên thập giá, Ngài lại thốt lên: “Tôi khát” (Ga 19,28).
Như thế, cả một đời phục vụ của
Đức Giê-su lúc nào Ngài cũng “khát”. Ngài khát khao vì (x Mt 5,1-12):
§ Ngài muốn làm cho kẻ có tinh thần
nghèo khó là người chỉ khao khát Chúa, khao khát chân lý, thì Ngài sẽ cho họ
được hưởng Nước Trời.
§ Ngài khát khao những người sống
hiền lành, để Ngài sẽ cho họ đất làm phần cơ nghiệp.
§ Ngài khao khát những kẻ ưu phiền
đến với Ngài, vì Ngài đang đợi chờ an ủi họ.
§ Ngài khát khao người đói khát sự
công chính,vì chỉ có những ai tin và kết hợp với Ngài thì được no đầy sự công
chính.
§ Ngài khao khát kẻ biết thương xót
người, vì họ sẽ được Ngài xót thương.
§ Ngài khao khát những kẻ tinh sạch
trong lòng, vì chỉ có Ngài cho họ được nhìn thấy Thiên Chúa.
§ Ngài khát khao những kẻ tác tạo
hòa bình, vì Ngài cho họ trở nên con Thiên Chúa.
§ Ngài khao khát những kẻ bị bắt bớ
vì sự công chính, bị người ta vu oan cáo vạ đủ điều, rồi bị dẫn đến cái chết. Nhưng
chỉ có Ngài ban cho họ được Nước Trời làm sản nghiệp.
Đó là tám mối Phúc, chỉ có Đức
Giê-su mới thực hiện cho những ai yêu mến đến với Ngài. Người như thế chính là
người có “Đức Khôn Ngoan đã được chứng minh bằng hành động” (x Mt 11,19b:
Tin Mừng).
Ai yêu mến đến với Đức Giê-su, thì
phải học hỏi Lời của Ngài, đó là “khởi
điểm đích thực của Đức Khôn Ngoan” (Kn 6,17). Vậy ai muốn tham dự vào bản
tính tình yêu của Thiên Chúa (x 1Ga 4,8), thì hãy cầu xin với Ngài, đặc biệt
khi tham dự Hy Tế, bởi vì chính lúc Đức Giê-su bị treo trên thập giá, là lúc
Ngài đang dâng Lễ, Ngài đã thốt lên: “Ta khát”, thì ai đến với Ngài bằng
lòng mến, sẽ làm cho Ngài đã khát ! Và cũng bởi nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài,
mà Ngài lại cho chúng ta biết đói khát Ngài, như Chúa đã dùng miệng ngôn sứ
Amos nói: “Ta sẽ gieo đói khát trên xứ
này, không phải vì đói bánh ăn, cũng không phải vì khát nước uống, mà là đói
khát được nghe Lời Chúa” (Am 8,11).
Ai khát Chúa, “hãy ra nghênh đón Người, chính Người là
Hoàng Tử bình an” (Tung Hô Tin Mừng). Ta lại biết, Đức Giê-su đã nói với
chị Matta, một người đang bận rộn phục vụ bữa ăn để đãi khách đến nhà, mà lại
coi thường hay không quan tâm đến lời khách là chính Thầy Giê-su đang hiện diện
dạy Lời cho chị Maria: “Này Matta, Matta,
chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một việc cần thiết mà thôi,
Maria em chị đã chọn phần tốt nhất, và không bị ai giựt mất !” (x Lc
10,38-42). Nhất là đối với Thiên Chúa: “Ngài
muốn tình yêu chứ không muốn lễ vật, Ngài ưa việc nhận biết Thiên Chúa hơn là
của lễ toàn thiêu” (x Hs 6,6). Bởi vì kẻ nào “không đếm xỉa đến việc nhận biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ phó mặc
cho trí não nó ngông cuồng của nó làm điều bất xứng” (Rm 1,28). Còn “ai theo Chúa sẽ được ánh sáng ban sự sống”
(Ga 8,12: Đáp ca)
Trong lịch sử các dân tộc giành
độc lập, không ai thành công bằng ông Gandhi, thủ tướng Ấn Độ, tuy ông không
phải là người Công Giáo, nhưng ông rất say mê đọc Thánh Kinh. Kinh Thánh là Sách gối đầu giường của ông, ông thường
đọc và suy gẫm trước khi ngủ cũng như khi thức dậy. Nhờ lòng yêu mến Lời Chúa,
mà Chúa đã cho ông Đức Khôn Ngoan đẩy quân đội Anh về nước, để chính quyền Anh
phải trả độc lập cho dân Ấn, nhất là nước Anh lại còn giúp Ấn Độ kiến thiết đất
nước như một đồng minh. Sự thành công này đã trở nên mẫu mực cho tất cả những
ai muốn thành công trên đời, vì thế ông nói: “Đời chỉ thành công bao lâu dám
thí nghiệm sống chân lý”.
Dù ông Gandhi không phải là người
Công Giáo,nhưng nhờ ông mê đọc Thánh Kinh, ông cũng đáng được Chúa xếp vào loại
người “lấy việc làm của mình minh chứng
Đức Khôn Ngoan” (Mt 11,19b: Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
+ Khởi điểm đích thực nhất của Đức Khôn Ngoan là thực lòng
ham muốn học hỏi (Kn 6,17).
+ Ai không đếm xỉa đến việc
nhận biết Thiên Chúa, Thiên Chúa để cho trí não ngông cuồng của nó làm điều bất
xứng (Rm 1,28).