BÀI GIẢNG
TRONG CHÚA GIÊ-SU
CON NGƯỜI TRỞ NÊN TUYỆT HẢO
Đức Giê-su
nói : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Bt.
Tuy nhiên kẻ nhỏ hơn trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11).
Lời xác định trên Đức Giê-su có ý so sánh ông Gioan Bt với
người Công Giáo :
A. SỞ DĨ GIOAN TẨY GIẢ CAO TRỌNG NHẤT GIỮA NHỮNG NGƯỜI DO NGƯỜI NỮ
SINH RA,
là vì từ thời Adam, Eva và chắc chắn cho đến ngày cánh chung, không một người
nào có mặt trên trái đất này giống Đức Giê-su về cuộc sống trên dương thế như
ông Gioan. Thực vậy, giữa Đức Giê-su và ông Gioan từ lúc sinh vào đời cho đến
lúc chết, có nhiều điểm tương đồng rất sít sao, mà trong nhân loại không ai có
được.
1. Cả Gioan, cả Đức Giê-su trước khi
được thụ thai trong lòng mẹ đều do Thiên
thần Gabriel báo tin (x Lc 1,19 = Lc 1,26).
2. Cả Gioan, cả Đức Giê-su đều sinh ra từ đôi vợ chồng khác thường
: Cha mẹ của Gioan đã gần 100 tuổi mà chưa có con, thế mà ông Dacarya lại được thiên
thần báo tin cho biết : Vợ chồng ông sẽ sinh con ; cũng thế, Đức Giê-su được
sinh ra trong một gia đình, vợ chồng không ăn ở với nhau (x Lc 1,7 = Lc 1,34) ,
vì chỉ có ông Giuse sống hướng về cánh chung : “Có vợ mà kể như không có” (1 Cr 7,29).
3. Tên Gioan và tên Đức Giê-su đều
được thiên thần bảo cha mẹ phải đặt tên con mình như thế (x Lc 1,13 = Lc 1,31).
4. Thân thế ông Gioan và Đức Giê-su đều thuộc dòng tộc giàu có : Gioan là
con vị tư tế ở thành Giê-ru-sa-lem ; Đức Giê-su là Con của Cha trên trời, thế
mà cả hai Vị sinh ra trong cảnh nghèo : Gioan sinh ra được nuôi dưỡng trong sa
mạc (x Lc 1,80) ; Đức Giê-su sinh ra thì mẹ Ngài lấy tã bọc đặt nằm trong máng
cỏ (x Lc 2,7).
5. Ông Gioan và Đức Giê-su đều thống nhất chương trình hành động.
Do đó cả hai Vị đều mở đầu sứ mệnh bằng công thức : “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (x Mt 3,2 = Mt 4,17).
6. Sứ điệp Tin Mừng của ông Gioan và
của Đức Giê-su đều nóng bỏng và dứt
khoát, không khoan nhượng cho những kẻ khất đến ngày mai. Cụ thể :
-
Ông
Gioan nói với mọi người : “Cái rìu đã để
sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái thì bị chặt quăng vào lò lửa” (Mt
3,10). Có nghĩa là ngay hôm nay ai không tin vào Chúa Giê-su để làm việc tốt, thì
phải diệt ngay.
-
Còn
Đức Giê-su nhìn cây vả lớn, lá xum suê, Ngài đến tìm quả mà không có, dù lúc ấy
không phải là mùa trái vả, mà ngài lại lên tiếng trách nó : “Không bao giờ Ta ăn trái mày nữa !” Sáng
hôm sau, các môn đệ đi ngang qua thấy cây vả đã chết khô từ ngọn đến rễ (x Mt
21,18-19) : Cây vả lớn là dấu chỉ những người được Thiên Chúa nuôi dưỡng và giáo
dục mà hôm nay không trở nên người công chính, nhờ tin vào Chúa Giê-su (x Gl
2,16), thì kẻ đó không thể được cứu độ.
7- Ông Gioan và Đức Giê-su đều động viên người ta chia sẻ :
- Ông Gioan nói : “Ai có hai áo hãy chia cho người không có một
cái, và ai có của ăn thì cũng hãy làm như vậy” (Lc 3,11).
- Chúa Giê-su dạy : “Cho thì có phúc hơn là lấy” (Cv 20,35)
8-
Ông Gioan và Đức Giê-su đều chết
vì chân lý :
-
Ông
Gioan dám lên tiếng trách vua Hê-rô-đê không được cướp vợ anh mình, do đó ông bị
cắt đầu (x Mt 14,3t).
-
Đức
Giê-su lên tiếng trách những đầu mục Do-Thái sống đạo hình thức, cầu nguyện bằng môi mép để nuốt chửng
tài sản bà góa, ngăn cản những ai muốn vào Nước Trời (x Mt 23). Do đó Ngài bị
treo trên thập giá (x Mt 27,23t).
Tám điểm ông Gioan giống Đức
Giê-su như trên tiên báo Đức Giê-su sẽ Phục Sinh vào ngày thứ tám (Chúa nhật).
B. KẺ NHỎ TRONG NƯỚC
TRỜI CÒN CAO TRỌNG HƠN ÔNG GIOAN TẨY GIẢ.
1. Thuật ngữ “kẻ nhỏ” trong Tân Ước
luôn luôn chỉ về những người thuộc về Hội Thánh Chúa Ki-tô, những người được
Chúa Giê-su cứu độ. Thực vậy, các Tông Đồ là những người lớn tuổi, mà Đức
Giê-su đòi hỏi họ phải trở nên trẻ nhỏ mới được vào Nước Thiên Chúa (x Mt 18,3)
; Ngài nói với các môn đệ : “Hỡi các con
thơ bé, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi” (Ga 13,33a) ; cũng như
Ngài nói : “Đừng sợ, hỡi đoàn chiên nhỏ
bé, vì Cha chúng con đã khấng ban Nước Trời cho chúng con” (Lc 12,32).
2. Các thư của thánh Gioan viết cho
các giáo đoàn có nhiều người lớn tuổi hơn ông Gioan, thế mà ông luôn luôn gọi
họ là : “Hỡi các con thơ bé” (x 1Ga
2,1.12.14.18.28).
Vậy “kẻ nhỏ trong Nước Trời lớn hơn
ông Gioan Tẩy Giả”, chính là người Công Giáo sau khi đã lãnh Bí tích
Khai Tâm, họ hơn ông Gioan những điểm sau :
-
Ông Gioan chỉ là chú phù rể đối với Đức Giê-su (x Ga 3,29) ;
trong khi đó người Công Giáo được gọi là
Hiền Thê của Chúa Giê-su, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy (x 2Cr 11,2).
-
Ông Gioan chỉ giống Đức Giê-su bề
ngoài về cách thế
hiện diện và đường hướng phục vụ ; thua xa người
Công Giáo được trở nên cùng một xương thịt với Chúa Giê-su (x Dt 2,11),
nhất là được cùng một sự sống với Thiên
Chúa, như Đức Giê-su nói : “Ai ăn tôi
nó sống nhờ tôi, như tôi sống nhờ Cha tôi” (Ga 6,57).
-
Sứ
mệnh của ông Gioan chỉ như tiếng kêu
trong sa mạc (x Ga 1,23) ; thua xa người
Công Giáo được Chúa hứa : “Ai tin vào
Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta đi đến cùng Cha”
(Ga 14,12).
Cụ thể cả cuộc đời Đức Giê-su phục
vụ đến chết, mới đưa một anh trộm lành vào Thiên Đàng ; còn người Công Giáo mỗi
khi đi dự Lễ, hiệp thông với Hội Thánh cầu nguyện cho những người đã qua đời,
thì biết bao linh hồn được về Thiên Đàng ; hoặc Chúa Giê-su không lập một giáo
đoàn nào, trong khi đó ông Phao-lô khai sinh được rất nhiều giáo đoàn…
C. NGƯỜI CÔNG GIÁO
PHẢI CHIẾN ĐẤU VÌ TIN MỪNG VÀ ĐI VÀO CON ĐƯỜNG HẸP.
Ai muốn đón nhận được ơn cao trọng
nhất là làm con Đức Chúa Trời (x Ga 1,12), đến nỗi được đồng hóa với Chúa
Giê-su (x Gl 2,20), thì không phải như kẻ “há
miệng chờ sung”, bởi đó Đức Giê-su nói : “Từ thời Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức
mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12 : Tin Mừng).
Vậy, muốn được trở nên con Thiên
Chúa, là người cao trọng nhất trong Nước Trời, thì ta phải mạnh sức (cường bạo)
để đón nhận, bắt chước những chứng nhân của Tin Mừng, khởi đi từ thời ông Gioan
Tẩy Giả. Cụ thể :
1/ Phải từ bỏ và đi đường hẹp.
Bắt chước lối sống của ông Gioan
Bt, tuy ông là con một của gia đình rất giàu có, nhưng nhu cầu sự sống của ông
rất đơn giản : “Mặc áo lông lạc đà, thắt
xiêm bằng da thú vật, ăn châu chấu và mật ong dại” (x Mt 3,4) ; và đến cuối
đời, ông chấp nhận mất mạng vì không muốn ai phạm tội (x Mt 14,3t). Bởi vậy Đức
Giê-su nói : “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy,
thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với
Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ
lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ
tìm thấy được” (Mt 10,37-39), và “Hãy
qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà
nhiều người lại đi qua đó.Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng
ít người tìm được lối ấy” (Mt 7,13-14).
2/ Mau lẹ vượt rào cản đến với Chúa Giê-su.
Bắt chước bốn người khỏe khiêng
người bất toại đến cho Đức Giê-su, biết không thể đưa bệnh nhân vào lối cửa
trước hay cửa sau, vì căn nhà chật ních những người đang nghe Đức Giê-su giảng
dạy, thế là bốn người khỏe leo ngay lên mái nhà, dám liều đục một lỗ to và thả
người bất toại xuống gấp cho Đức Giê-su ! (x Mc 2,1-12). Vì vậy thánh Phao-lô
nói : “Ai lừng khừng sẽ làm mất ơn Chúa,
trở nên kẻ cay đắng gây xáo trộn và làm hư hỏng nhiều người” (Dt 12,15).
3/ Tích cực loan báo Tin Mừng, không ai cấm cản được.
Đan cử : Đức Giê-su chữa lành cho
người cùi và người điếc ngọng, Ngài cấm họ không được nói cho ai biết về Ngài.
Nhưng lệnh cấm ấy không được họ tôn trọng, họ càng nói nhiều hơn nữa để mọi
người tìm đến với Đức Giê-su (x Mc 1,40t ; Mc 7,31t). Vì thế thánh Phao-lô nói
: “Tôi có sự thật về Đức Ki-tô, thì không
ai bịt miệng tôi được!” (2 Cr 11,10).
4/ Đặt việc Nước Thiên Chúa hơn mọi việc trần thế.
Thực vậy, ông Mát-thêu đang ngồi
thu thuế, là một mối lợi lớn cho ông, thế mà khi nghe Đức Giê-su gọi : “Hãy theo tôi”, ông liền bỏ ngay nghề nghiệp về nhà làm tiệc và mời
nhiều người tội lỗi đền đồng bàn với Đức Giê-su, rồi ông lên đường đi theo Ngài
(x Mc 2,13t). Cả các ông An-rê và Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, đang bận rộn
công việc chài lưới, nhưng khi nghe Đức Giê-su gọi, các ông tức khắc theo Ngài
(x Mt 4,18-22). Thậm chí, một người xin Đức Giê-su về an táng cha mới qua đời,
rồi mới theo Ngài, nhưng Đức Giê-su bảo : “Cứ
để kẻ chết chôn kẻ chết, phần anh hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc
9,59-60).
5/ Phải quảng đại chia sẻ.
Bắt chước ông Gia-kêu khi được Đức
Giê-su đến thăm nhà, ông dám bán cả gia tài, một nửa chia cho kẻ nghèo và đền gấp bốn lần cho những ai ông
đã làm thiệt hại (x Lc 19). Sống như ông Gia-kêu chắc chắn người đời cho là ngu
dại, như lời sách Diễm ca nói : “Dù nước
lũ có dâng lên, dù sóng thần có ập tới, cũng không vùi lấp được tình yêu, ai
đem hết gia tài sự nghiệp đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dể!”
(Dc 8,7).
6/ Phải khắc phục bản thân sống theo Tin Mừng.
Như thánh Tông Đồ nói :
-
“Tôi
được phép làm mọi sự"; nhưng không phải mọi sự đều có ích. "Tôi được
phép làm mọi sự"; nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi (1 Cr
6,12).
-
Tôi
chạy mà không phải chạy hờ, tôi đấu quyền mà không phải đấm không khí, trái
lại, tôi nhắm con ngươi đồng tử mà thụi vào chính thân tôi, và bắt nó quỵ lụy
phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại (1 Cr
9,26- 27).
Những người sống làm con Đức Chúa
Trời trên đây, Đức Giê-su gọi họ là những “kẻ bé nhỏ” trong Nước Thiên Chúa,
nhưng họ đã trở nên chứng nhân cường bạo của Tin Mừng, họ làm ứng nghiệm lời
ngôn sứ Isaia báo về thời đại Đấng Cứu Chuộc xuất hiện :
“Họ không sợ hãi chi, vì chính Chúa phù hộ họ, dù dưới mắt người đời họ
chỉ là loài sâu bọ, những kẻ mọn hèn. Nhưng họ đã được Chúa phù hộ, vì Ngài là
Đấng Cứu Chuộc, Ngài đã biến họ thành những cái bừa vừa sắc, vừa mới, vừa đầy
răng nhọn – một dụng cụ dùng vào nông nghiệp hiệu quả nhất – họ sẽ làm cho
Thiên Chúa vui mừng hoan hỷ. Chúa sẽ khai suối giữa sa mạc, trên đồi trọc hay
dưới thung lũng, và cho mọc um lên vườn cây quý giá : nào trắc bá, nào hoàng dương, tức là Chúa biến dữ ra lành,
tội ra ơn, chết ra sống cho họ” (x Is 41,13-20 : Bài đọc).
Sở dĩ có những người dùng sức mạnh
để chiếm hữu ơn làm con Chúa như trên, là vì họ đã nhận ra Con Thiên Chúa xuống
thế làm người để canh tân bộ mặt trái đất, hơn nước mưa đổ xuống nương đồng. Do
đó ta hay cầu nguyện cho mọi người đón nhận được Chúa Giê-su, như lời ngôn sứ
Isaia nói : “Trời cao hỡi, nào gieo
sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính, đất mở ra đi, cho nẩy mầm Đấng cứu
độ” (Is 45,8 : Tung Hô Tin Mừng), để họ được xứng đáng là chứng nhân của
Thiên Chúa : “Ngài là Đấng từ bi và nhân
hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 145/144,8 : Đáp ca).
Chắc nhiều người Việt còn nhớ vào
năm 1972 chuyện tổng thống Bô-cát-xa người Phi Châu, vào thời Việt Nam bị Pháp
thuộc, ông Bô-cát-xa là lính đánh thuê cho Pháp ở VN, thời gian ấy ông đã dan
díu với một phụ nữ VN và sinh ra một bé gái mang hai mầu da, nên người ta gọi
là cô là Ba Xí. Sau khi ông Bô-cát-xa trở về nước, hoàn cảnh đã đưa đẩy ông trở
thành vị tổng thống. Lúc ấy, ông nhớ lại mối tình quá khứ hồi còn đi lính đánh
thuê, và có để lại một đứa con ở VN, do đó ông nhờ tòa Đại sứ giúp ông tìm lại
mẹ con cô Ba Xí. Chuyện nực cười đã xảy ra : Có rất nhiều bà dẫn đứa con xấu xí
đến tòa Đại xứ khai báo : Đây là vợ, là con của ông Bô-cát-xa. Nhưng nhờ ngành
y học, người ta tìm ra được cô con gái của ông Bô-cát-xa, thế mà mẹ con cô Ba
Xí được bốc đi ngoại quốc. Mẹ trở thành
hoàng hậu, con gái được làm công chúa ! Nhưng tưởng rằng niềm vui của mẹ con bà
thua xa người Công Giáo không có dòng họ gì với Thiên Chúa, lại là kẻ phản bội,
đến nỗi giết cả Con Thiên Chúa, thế mà nhờ lòng sám hối và tin theo Chúa
Giê-su, lại được đồng hóa với Con Thiên Chúa, như thánh Tông Đồ nói : “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là Chúa
Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
THUỘC LÒNG
Từ thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải
đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được (Mt 11,12).