Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
Thứ 6 sau CN 34 TN năm Chẵn
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Kh 20, 1-4.11-21,2
20  1 Tôi là Gio-an, tôi thấy một thiên thần từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một dây xích lớn.2 Người bắt lấy Con Mãng Xà, tức là Con Rắn xưa, cũng là ma quỷ hay Xa-tan, và xích nó lại một ngàn năm.3 Người quăng nó vào Vực thẳm, rồi đóng cửa và niêm phong lại, để nó không còn mê hoặc các nước, cho đến khi hết một ngàn năm ấy. Sau đó, nó phải được thả ra trong một thời gian ngắn.
 4 Rồi tôi thấy những chiếc ngai, có người ngồi trên đó, và họ được ban quyền xét xử. Tôi cũng thấy linh hồn những người đã bị chém đầu vì đã rao giảng lời chứng của Đức Giê-su và lời của Thiên Chúa; họ là những kẻ đã không thờ lạy Con Thú và tượng của nó, và không nhận thích dấu của nó trên trán và trên tay. Họ sống lại và hiển trị với Đức Ki-tô một ngàn năm.
11 Bấy giờ tôi thấy một ngai lớn màu trắng và thấy Đấng ngự trên đó. Đất và trời biến mất trước mặt Người, không để lại dấu vết.12 Rồi tôi thấy những người chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách.
13 Biển trả lại những người chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm.14 Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai.15 Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa.
21  1 Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa.2 Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang.
ĐÁP CA : Tv 83
Đ.        Đây là Nhà Tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại. (Kh 21,3b)
3 Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi mong tới được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.
4 Lạy Chúa Tể càn khôn là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ, ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm, cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con bên bàn thờ của Chúa!
5 Phúc thay người ở trong thánh điện họ luôn luôn được hát mừng Ngài. 6a Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức mạnh,8a càng tiến lên, họ càng mạnh bước.
 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG : Lc 21,28
Hall-Hall : Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Hall.
TIN MỪNG : Lc 21,29-33
29 Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: "Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác.30 Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần rồi.31 Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.32 Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.33 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
 
BÀI GIẢNG
MỌI TẠO THÀNH CHỈ HOÀN HẢO
VÀ TỒN TẠI TRONG CHÚA GIÊ-SU
(Cl 1,19)
Vào những ngày cuối năm Phụng Vụ, Hội Thánh hướng lòng mọi người về ngày cánh chung : “Vì chưng hết thảy chúng ta sẽ phải xuất đầu lộ diện trước tòa Đức Ki-tô, để mỗi người lãnh lấy thành quả đời mình trong thân xác, xứng với việc hoặc lành hoặc dữ” (2Cr 5,10). Như vậy, cánh chung là mùa thu hoạch của Chúa Giê-su, vì Ngài đã giáng trần đi gieo hạt giống Lời vào lòng người (x Lc 8,11), rồi đổ ân sủng phát xuất từ Chúa Cha (x Ga 17,18) làm cho tâm hồn con người đã đón nhận Lời Chúa phát sinh sự sống, hơn nước mưa thấm xuống lòng đất (x Is 55,10-11). Ngài còn lấy máu châu báu phát xuất từ trái tim yêu thương bị đâm thủng trên thập giá, diệt trừ hết tội lỗi nhen lên trong tâm hồn con người (x Ga 12,31), hiệu quả hơn thuốc trừ sâu của nhà nông ! Nhất là Ngài lấy chính xương thịt của mình nuôi người Ki-tô hữu, là giống nho tốt Thiên Chúa lượm khắp nơi trên mặt đất đem trồng vào vườn Hội Thánh của Ngài đã cuốc xới (x Is 5,1-7), tạo nên mảnh đất tâm hồn mầu mỡ cho hạt giống “con cái Nước Thiên Chúa” mọc lên phát triển đơm bông kết trái (x Mt 13,38). Đức Giê-su nói về cây vả vào mùa xuân đâm chồi nảy lộc để tới mùa hè người ta hái được trái vả dùng cho bõ công chăm sóc (x Lc 21,29-30 : Tin Mừng). Như thế, mùa xuân là mùa Thiên Chúa vui thích ở với dân Ngài, và tới mùa hạ (cánh chung), Ngài đến thâu hoạch hoa trái nơi loài người.
Trong Bài đọc, ngôn sứ Đa-ni-en diễn tả ngày Chúa Giê-su trở lại trần gian để thâu hoạch hoa trái, vì Ngài là Vua trên các vua, Chúa trên các chúa, nên mọi quyền lực trong thế gian đã được Ngài thông ban cho (x Ga 19,11). Vào Ngày của Thiên Chúa, các vua chúa phải tính sổ trước mặt Ngài. Kẻ nào lạm quyền hành hạ dân, nó chỉ như những con thú :
-      Con sư tử có cánh (x Đn 7,4), đó là đế quốc Babylon do Nabukodonosor lãnh đạo, đã ra lệnh phá thánh địa Giê-ru-sa-lem bắt dân Chúa đi lưu đày.
-      Con gấu (x Đn 7,5), đó là đế quốc Mê-đi, khét tiếng độc ác, giết ai tùy tiện !
-      Con beo (x Đn 7,6), đó là đế quốc Ba-tư, quyền lực mạnh đến nỗi đập tan đế quốc Babylon.
-      Mãnh thú thứ tư, dễ sợ, đáng khinh và hùng mạnh. Nó có nanh sắt to lớn và vuốt đồng, có 10 sừng (x Đn 7,7), đó là đế quốc Hy-lạp rất hùng mạnh, do đại đế Alexandro thiết lập.
Cả bốn vương quốc trên đều thống trị dân Israel là dân Thiên Chúa tuyển chọn, dù chúng có sức mạnh vô song như có mười sừng trên đầu, lại rất lanh lợi tinh khôn, mưu mô quỷ quyệt như những mắt trên sừng chúng, chúng có miệng lưỡi uy quyền, phán ra thì như tiếng sét đánh vào dân bị trị (x Đn 7,8).
-      Một sừng khác mọc lên (x Đn 7,8a), tức là vua An-ti-ô-khô thứ tư Ê-pi-pha-nê, vua này phỉ báng Thiên Chúa, nhưng bị dòng họ Ma-ca-bê đánh bại, kết thúc cuộc bách hại dân Chúa (x 1Mcb 5,55-60).
-      Thế rồi ba sừng nhỏ lại mọc lên (x Đn 7,8b), kế vị vua An-ti-ô-khô,  đó là ba vua: Sêlêukut IV Philopator, rồi đến vua Đênêtrius, sau cùng là vua Holiđôrô, tất cả các vua này đều bị nhổ sạch khỏi mặt đất.
Như thế mọi quyền lực vô cùng dũng mãnh trên đây, đều bị “Con Người (Chúa Giê-su) ngự giá mây trời đến xét xử chúng, và Ngài chấm dứt quyền bính đã trao cho y, để thiết lập vương quốc của dân Thiên Chúa thuộc mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ. Vì tất cả mọi dân tộc đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một, vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Dn 7,13-14 : Bài đọc năm lẻ). Đó chính là Hội Thánh Chúa Ki-tô vững mạnh tồn tại muôn đời, dù quyền lực satan có dấy lên cũng không thể triệt hạ được (x Mt 16,18). Vì Chúa Ki-tô là Đầu của Hội Thánh, và Chúa Thánh Thần là sức mạnh toàn năng của Thiên Chúa đạp nát đầu rắn satan (x St 3,15).
Nhưng chân lý này chỉ biểu lộ cách trọn vẹn vào ngày cánh chung như Chúa đã mạc khải cho ông Gioan qua thị kiến : “Một thiên thần từ trời xuống, tay cầm chía khóa vực thẳm (quyền lực ác thần), và một dây xích lớn. Người ấy bắt con Mãng Xả, tức là con rắn xưa (xúi loài người chống ý Chúa) cũng là ma quỷ, và xích  nó lại một ngàn năm (thời Thiên Chúa ra tay cứu độ cho muôn thế hệ - Xh 20,6 ;Gr 32,18), và quăng nó vào vực thẳm, rồi đóng cửa và niêm phong lại, để nó không còn mê hoặc các nước. Tôi lại thấy những chiếc ngai có người ngồi trên đó, và họ được ban quyền xét xử (quyền xét xử của các Tông Đồ được Chúa ban- Mt 19,28). Rồi tôi lại thấy hồn những người đã bị chém đầu vì đã rao giảng lời chứng của Đức Giê-su, họ là những người không thờ lạy con thú (không thờ ngẫu tượng), họ được sống lại hiển trị với Đức Ki-tô một ngàn năm. Tôi lại thấy đất và trời biến mất trước mặt Người, không để lại một dấu vết, rồi hết thảy mọi người đã chết đều sống lại đứng trước ngai. Sổ Sách đã mở sẵn, đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tùy theo những công việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong Sổ Sách.
Biển (tử thần, satan – Kh 21,1) trả lại những người chết nó đang giữ. Tử thần bị quăng vào hồ lửa là những kẻ không có tên trong Sổ Trường Sinh.
Bấy giờ trời mới đất mới xuất hiện, vì trời cũ đất cũ đã biến mất (người được Chúa cứu trong thế giới cánh chung không giống như trên dương thế). Biển không còn nữa : sự ác, tử thần, satan không còn tồn tại. Một thành thánh Giê-ru-sa-lem mới tự trời nơi Thiên Chúa mà xuống, đó là những người được Chúa Ki-tô cứu độ trong ngày cánh chung, họ sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón Tân Lang Giêsu” (Kh 20,1-4.11-21,2 : BĐ năm chẵn).
Đó là Nhà Tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại (x Kh 21,3b : ĐC năm chẵn). Lúc ấy họ mới thực sự là những người được “đứng thẳng và ngẩng đầu lên vì ơn cứu độ đã đến” (Lc 21,28 : Tung Hô Tin Mừng).
Như thế Lời Đức Giê-su đã nói chắc chắn sẽ được thực hiện, vì  “trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa  nói sẽ không bao giờ qua” (Lc 21,33 : Tin Mừng).
Lịch sử loài người qua các đế quốc với các vua rất hùng mạnh, lần lượt qua đi như không bao giờ có họ trên đời, vì họ là loài thú cùng số phận như  muôn thú đều phải chết (x Gv 3,18-19). Chính vì thế mà ông Gamaliel đứng giữa công nghị của Thượng hội đồng Do-Thái lớn tiếng nói : “Cơ đồ nào hay công trình nào do tự loài người tất sẽ bị phá hủy ; nhưng nếu do bởi Thiên Chúa thì không ai phá hủy nổi, lại còn lâm họa vì trở thành những đối địch với Thiên Chúa” (Cv 5,38-39).
          Vậy ta muốn được sống vinh quang muôn đời trong Nước Thiên Chúa, ta phải thực hành Lời Chúa dạy : “Tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước và sự công chính của Ngài còn những sự khác Ngài sẽ ban thêm sau” (Mt 6,33), có thế ta mới không thua các loài thụ tạo, vì cả đến lửa hồng vây quanh ba chú bé Do-Thái cũng cùng với các chú hò ca tụng Thiên Chúa : “Chúc tụng Chúa đi, này đồi xanh núi biếc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Chúc tụng Chúa đi, hỡi suối nước tràn đầy, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Chúc tụng Chúa đi, nào sông sâu biển cả, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Chúc tụng Chúa đi, kình ngư cùng thủy tộc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài chim chóc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Chúc tụng Chúa đi, gia súc lẫn thú rừng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.” (Tc Đn 3,75-81: Đáp ca năm lẻ).
Năm 1961, ý thức hệ Tư bản và Xã hội chủ nghĩa gia tăng cực độ giữa dân tộc Đức, khiến họ đưa đến quyết định tôn trọng nhau : ai thích cộng sản thì ở Đông Đức ; còn ai ưa tư bản thì sống ở Tây Đức. Nhưng làn sóng người ở Đông Đức tràn qua Tây Đức mỗi ngày một gia tăng, khiến họ phải xây bức tường chia đôi đất nước từ ngày 13-08-1961. Tường dài 700 km, cao 8m, dầy 3m. Tiếc thay bức tường dựng lên lại càng tăng thêm sự thù ghét giữa đôi bên!
Nhưng sau 3 giờ, ông Gióp-ba-chóp, Tổng bí thu đảng cộng sản Liên xô gặp Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, ông trở về nước tuyên bố giải tán đảng cộng sản. Tức khắc bức tường ô nhục Bá-linh bị phá đổ ngày 13-11-1989.
Bức tường  ngăn cách giữa Tây Đức và Đông Đức cũng là biểu tượng cho sức mạnh của lý thuyết Mác-Lê, nhưng lý thuyết ấy không mạnh bằng Lời Thiên Chúa, vì trước đó 2 năm Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II tuyên bố với thế giới rằng : “Chân lý sẽ giải phóng con người” (Ga 8,32). Chính sức mạnh của chân lý này là nguyên nhân làm cho bức tường chia rẽ đó sụp đổ, nối lại tình thân giữa Đông Đức và Tây Đức.
THUỘC LÒNG
Trời đất sẽ qua đi, chỉ có Lời Thầy Giê-su mới tồn tại



Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: