BÀI GIẢNG
PHỤC VỤ ĐỂ PHỤC SINH VINH
HIỂN
Khát vọng được hạnh phúc muôn đời
nó dội lên từ đáy lòng mọi người thuộc mọi tôn giáo. Nhưng chỉ có Ki-tô giáo
tin vào xác hồn mọi người sẽ được sống lại mới đáp ứng thỏa đáng khát vọng này.
Trong Do-Thái giáo vốn đã có niềm tin Phục Sinh, nhưng không thể minh chứng xác
thực và cụ thể, do đó nó đã trở thành một đề tài tranh luận sôi nổi giữa hai
nhóm Biệt phái và Sa-đốc. Chỉ một mình Đức Giê-su mới là trọng tài xác quyết có
sự sống lại, dựa vào mạc khải từ miệng Thiên Chúa và đồng thời Ngài cũng cho
biết khái niệm chính xác về sự sống của
thời Phục Sinh. Tuy nhiên, trong thế giới Phục Sinh, vinh hiển hay tủi nhục cũng còn tùy thuộc vào
cách sống của mỗi người trên đời có sống theo giáo lý của Chúa hay không ?
1. TẠI SAO NIỀM TIN
PHỤC SINH KHÔNG ĐỒNG NHẤT TRONG DO-THÁI GIÁO ?
Nhóm Sa-đốc chỉ tin Ngũ Thư của
ông Mô-sê : Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Dân số, Đệ nhị Luật, mà trong Ngũ Thư
không mạc khải rõ về sự sống lại !
Trong khi nhóm Biệt phái yêu thích
Lề Luật, nên họ đã nhận toàn bộ Cựu Ước gồm 46 cuốn làm kinh điển chính thức
cho niềm tin. Niềm tin vào thế giới Phục Sinh chỉ được mạc khải rõ nét trong
sách Ngôn sứ (x Os.6,1t ; Ez.37, 1-14 ; Is.51,17 và Is 60,1). Và rõ nhất sách
Ma-ca-bê ghi : “Khi sắp tắt thở, người
con thứ tư nói như sau: "Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào Lời
Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại." (2Mcb 7,14a).
Có lẽ mạc khải nói rõ về sự Phục
Sinh trễ như thế vì lý do trước đây dân Do-Thái cứ mơ tưởng cùng đích ơn cứu độ
được đóng khung và dừng lại ở đền thờ Giê-ru-sa-lem đã xây dựng trên đất Chúa
hứa ! Nhưng qua những cuộc bách hại từ thời lưu đày Ba-by-lon trở đi, cho dân
Chúa kinh nghiệm : ơn cứu độ không thể hoàn tất ở đời này được, mà chỉ được
hoàn tất trong một thế giới sau cuộc đời trần thế.
Đối với bè Sa-đóc chỉ chấp nhận
Ngũ Thư của ông Mô-sê, nên khi Chúa Giê-su trả lời cho họ về sự Phục Sinh, Ngài đã trích một đoạn trong
sách Xuất hành (nằm trong bộ Ngũ Thư), đoạn nói về tiếng Chúa phán dạy cùng ông
Mô-sê khi ông thấy Bụi Gai bốc cháy: “Ta là Chúa của Ab-ra-ham, Chúa của
Y-sa-ac, Chúa của Gia-cóp” (Xh.3, 2-6).
Và Đức Giê-su đã giải thích : ngay
đoạn sách này, Thiên Chúa đã mạc khải sự sống lại, vì các tổ phụ Ab-ra-ham, Gia-cóp
thực đã chết trước khi Chúa gọi ông Mô-sê. Thế mà Chúa vẫn là Chúa các tổ phụ
của ông Mô-sê, thì Ngài là Chúa của kẻ sống, chứ không phải là Chúa của kẻ chết
! Như thế là Đức Giê-su xác định : Người ta còn có sự sống nữa sau cuộc sống
trần gian.
2. SỐNG LẠI LÀ HỢP LÝ
VÀ KI-TÔ GIÁO ĐÃ MINH CHỨNG ĐƯỢC ĐIỀU NÀY .
a- Sống lại là
hợp lý: Con người đúng nghĩa không chỉ có xác hay chỉ có hồn, mà cả xác hồn.
Do đó điều lành hay điều dữ con người làm là cả xác hồn đều làm, không lẽ kết
qủa chỉ có hồn được thưởng hay bị phạt ? Vì thế xác phải sống lại với hồn để
cùng chung một số phận mới là hợp lý !
Mặt khác, phải có thế giới Phục
Sinh, một thế giới hoàn toàn không còn sự ác chế ngự con người, quyền lực sự ác
phải bị tiêu diệt, để những ai sống chiến đấu vì công lý thì được sống trong
thế giới chỉ có công lý. Bởi thế, thánh Phao-lô nói : “Nếu ta đặt mối hy
vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn cho lúc sinh thời này thôi, thì qủa ta là kẻ khốn nạn
nhất trong cả thiên hạ !” (I
Cr.15,19). Vì nếu người chết không sống lại, thì ta cứ sống ác để đè bẹp bất cứ
ai, chứ dại gì mà phải chịu đựng, phải tha thứ cho kẻ hại mình, kết quả mình
chịu thiệt là kẻ khốn nạn nhất trên đời.
b- Chỉ có Chúa
Giê-su mới cho loài người được Phục Sinh, như
Lời Ngài đã nói : “Phục
sinh và sự sống chính là Ta, ai tin vào Ta, thì dầu có chết cũng sẽ sống”
(Ga 11,25). Chân lý này đã được minh chứng bằng việc Chúa Giê-su cho nhiều
người chết sống lại. Đan cử : Ngài đã
làm cho con gái ông Giai-rô , con trai bà goá thành Na-im, cậu La-da-rô, được
sống lại (x Mc.5,21t ; Lc.7, 11t ; Ga.11). Vì “Ngài là Trưởng Tử trong số những người từ chỗi dậy” (Kh 1,5), “Ngài đã tiêu diệt thần chết và đã dùng Tin
Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh” (2 Tx 1,10 : Tung Hô Tin Mừng).
Dĩ nhiên sự phục sinh này mới chỉ
là dấu chỉ sự Phục Sinh thời cánh chung, và minh chứng chỉ có Chúa Giê-su mới
làm cho người ta được sống lại.
Chính Chúa Giê-su Phục Sinh mà các
Tông Đồ đã sờ nắn, đã ăn uống với Ngài, mới thực là nêu giá trị sự sống thời
cánh chung, vì thân xác Ngài đã được Thần hóa, nên cùng một lúc Ngài có mặt ở
khắp nơi để phục vụ những khát vọng của những người đã từng theo Ngài (x Lc.24
; Ga.20, 21).
3. KIẾP SỐNG THỜI CÁNH
CHUNG THẾ NÀO ?
Thánh Phao-lô
được Chúa cho lên đến “tầng trời thứ ba” tham quan, khi trở lại trần gian, ông
nói : “Tôi được nghe những Lời khôn tả,
người phàm không được phép nói lại” (x 2 Cr.12, 2.4).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giê-su, Đấng từ “tầng trời thứ chín” đến nói với chúng ta Lời khôn ngoan :
Người sống trong Nước Trời khác với người đời là :
+ Họ không cưới vợ lấy chồng.
+ Họ giống như các thiên thần. (Lc.20,
34-35).
a-
Sống thời cánh chung không cưới vợ lấy chồng :
+ Sống ở đời này không ai thoát
khỏi nỗi khổ vì tình cảm nam nữ : hoặc là khổ vì chính mình bị giăng mắc đắm
đuối, hay là khổ vì bị người ta hiểu
lầm, dị nghị … Đến như thánh Phao-lô cũng còn phải lên tiếng thanh minh cho
mình : “Tôi không có quyền đem theo mình một tín nữ sao?” (I Cr.9,5).
Thậm chí còn có những tiểu thuyết gán ghép cho cả Chúa Giê-su có người tình !
Bởi thế, nếu trong thế giới Phục
Sinh mà người ta còn giăng mắc chuyện đòi vợ tranh chồng, thì thà không có thế
giới ấy còn tốt hơn ! Đó là luận cứ của
bè Sa-đóc khi họ đặt câu hỏi với Chúa Giê-su về chuyện một bà đã có bảy đời
chồng, thì trong thế giới Phục Sinh, bà
ấy là vợ của ai? (x Lc 20, 29-33 : Tin Mừng).
Truyện kể :
Có vợ chồng kia mới
cưới được một năm, đã vào cha Sở xin gỡ Hôn phối. Cha Sở ngạc nhiên hỏi :
- Ủa, chúng con mới cưới một năm, sao đã bỏ nhau?
Học giáo lý quên mục đích Hôn nhân sao ?
Cô vợ bình tĩnh :
- Thưa cha, con nhớ
ngày đó cha dạy con : người chồng là Đức Ki-tô. Con cứ nghĩ chồng con đúng như
vậy, ai dè từ ngày con lấy nó, con chẳng thấy nó giống Đức Ki-tô, chỉ thấy nó
như thằng quỷ! Con lấy Đức Ki-tô chứ con đâu có lấy quỷ ?!
Anh chồng cũng không
vừa :
- Thưa cha, con thấy
vợ người ta mà thèm.
Cha Sở ngạc nhiên :
- Con thèm vợ người
ta ư? Như thế là con đã lỗi điều răn thứ chín, con đã ngoại tình trong tư
tưởng, thảo nào vợ chồng con bất hòa.
- Thưa cha, đâu phải
vậy. Con thèm vì thấy vợ người ta ngày hôm trước ốm, hôm sau lăn ra chết liền ;
còn con vợ của con, nó đau hoài mà chẳng chịu chết ! Con nuôi con gì nó cũng
chết, trừ nuôi con vợ nó không chết!
….. !!!!
+ Dầu sao đời sống vợ chồng tuy
cùng chung lý tưởng phục vụ, thì cũng còn đóng khung giới hạn trong một cộng
đoàn nhỏ thuộc phạm vi gia đình. Điều này cũng chưa thể phù hợp hoàn toàn với
tinh thần phục vụ trong Nước Trời là phục vụ không có ranh giới.
Ít nhất vì hai lý do trên : tránh
phiền toái để không ngăn trở phục vụ và tạo điều kiện phục vụ rộng lớn hơn, mà
Chúa Giê-su cho biết : “Con cái đời này
cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại
từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể
chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì
là con cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36 : Tin Mừng).
b- Sống thế giới
Phục Sinh là phục vụ như thiên thần :
Ai sống đời độc thân vì Nước Trời,
họ giống như thiên thần (x Lc 20,36b : Tin Mừng), mà Chúa dựng nên thiên thần
chỉ nhằm mục đích “sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu
độ” (Dt.1,14). Về vấn đề này thánh Phao-lô nói : “Tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ anh em với
tư cách là người -nhờ Chúa thương- đáng được anh em tín nhiệm. Vậy tôi nghĩ
rằng: vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt. Phải, tôi nghĩ rằng
đối với người ta, như thế là tốt. Bạn đã kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng
tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. Nhưng
nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì
cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian
truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn cho anh em thoát khỏi điều đó. Thưa anh em,
tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những
người có vợ hãy sống như không có” (1Cr 7, 25-29).
Chính vì để nhấn mạnh giá trị phục
vụ là nét sáng chói nhất trong thế
giới Phục Sinh, nên khi Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại, Ngài đã mặc lấy hình
ảnh người làm vườn để tỏ mình ra cho
bà Ma-ri-a Ma-da-la (x Ga.20,15). Và cụ thể, mỗi lần các Tông Đồ gặp lại Đấng
Phục Sinh là họ được Ngài chăm sóc đến nhu cầu của họ, như Ngài cắt nghĩa Kinh Thánh cho (x Lc.24), chỉ
dẫn họ cách đánh cá, rồi nướng bánh và cá phục vụ họ (x Ga.21), thông chia cho họ quyền bính và trao
việc cho họ để cộng tác với Ngài đi cứu
đời ! (x Ga 20, 19t ; Mt.28, 18t).
Sở dĩ việc phục vụ của thánh
Phao-lô không thua các Tông Đồ thượng đẳng (x 2 Cr 11,5) là vì ông sống độc
thân, nên có nhiều điều kiện phục vụ thuận lợi hơn, không bị phân tâm về chuyện
gia đình, nếu ông có vợ.
Như vậy độc thân vì Nước Trời để
phục vụ cũng là một ơn thiên triệu, và như thế đời mỗi người chỉ có quyền chọn
một trong ba:
o
Hoặc
là chọn bậc tu trì để chuyên lo cầu nguyện và giảng Lời cho mọi người (x
Cv.6,1-7).
o
Hoặc
là sống bậc gia đình để chuyên lo diễn tả tình yêu giữa Chúa Ki-tô và Hội Thánh
(x Ep.5,11t).
o
Hoặc
là sống độc thân vì Nước Trời để được tự do làm việc của Thiên Chúa, phục vụ
nhu cầu của đồng loại (x Lc.20, 35-36).
Ba ơn gọi trên dưới nhãn giới đóng
khung trong cuộc đời trần thế, khó mà nói bậc nào cao cả nhất, bởi vì ở bậc nào
cũng có cái khó và cái dễ :
õ Sống
bậc tu trì hoặc gia đình thì :
-
Điều khó là lệ thuộc vào người khác, không được tự do chọn đối
tượng phục vụ, hay không được tự ý chọn cách phục vụ!
-
Điều may mắn là có nơi nương tựa.
õ Bậc
sống độc thân giữa đời thì :
-
Điều dễ là được tự do trong việc phục vụ.
-
Điều khó là ở đời xem ra không chỗ tựa nương, chỉ có Chúa làm gia
nghiệp (x Tv 16/15,5).
Để có nghị lực lướt thắng được
những nghịch cảnh khi thi thành sứ mệnh ơn gọi, chỉ có cách là tin vào thời
Phục Sinh, Chúa sẽ thưởng bội hậu. Thực vậy, “Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô được coi là hai cây ô liu và hai cây đèn đứng
trước nhan Chúa Tể cõi đất. Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì Lửa (Lời Chúa) từ
miệng các ngài phát ra và thiêu hủy địch thù của các ngài. Các ngài có quyền
đóng cửa Trời lại, khiến mưa không rơi xuống trong những ngày các ngài làm ngôn
sứ. Tuy nhiên, có lúc Chúa cho phép sự dữ dấy lên để thử thách các ngài, nó
thắng và giết được các ngài, người ta sẽ đến nhìn xem thi thể các ngài trong ba
ngày rưỡi và không cho phép chôn các ngài trong mộ. Những người sống trên mặt
đất hân hoan vì các ngài đã chết, họ sẽ ăn mừng và tặng quà nhau, vì hai ngôn
sứ này đã làm khổ họ. Sau ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các
ngài, và các ngài đứng dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi”
(Kh 11,4-11 : BĐ năm chẵn). Đó là chiến thắng của hai thánh Phê-rô và Phao-lô
vào ngày cánh chung. Vì “Chúa là núi đá
cho ta nương ẩn” (Tv 144/143,1a : ĐC năm chẵn).
Chính vì vậy mà bảy anh em trong
một nhà chịu Tử Đạo, nhờ tin vào thời Phục Sinh, Chúa sẽ ban cho cả hồn xác
được sống lại để hưởng hạnh phúc đời đời, nên không có cực hình nào làm cho các
chú khiếp đảm bỏ Chúa ! (x 2 Mcb.7).
4. SỐNG THẾ NÀO Ở
ĐỜI NÀY ĐỂ BẢO ĐẢM CHO SỰ PHỤC SINH VINH HIỂN MAI SAU?
Dĩ nhiên trong ngày cánh chung, mọi người từ nguyên tổ
A-dam trở về sau, dù kẻ dữ hay người lành đều được Chúa cho sống lại :
§
Xác hồn người lành sống lại, để muôn đời được
vinh hiển như Chúa (x 1 Ga.2,6).
§
Xác hồn kẻ dữ sống lại, để chuốc lấy khổ nhục
đời đời (x Mt.25, 41-46).
Vậy muốn sống lành, tránh dữ để
được Phục Sinh vinh hiển, ta phải hiểu và sống điều Chúa giải thích về sự Phục
Sinh trong sách Xuất hành mà Tin Mừng hôm nay có nhắc đến (x Lc.20, 37-38). Sự
Phục Sinh được mạc khải trong đoạn nói về bụi gai :“Lửa bốc cháy giữa bụi
gai mà gai không bị thiêu rụi”
(Xh.3, 2). Lửa ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa tình yêu (x Dt.12,29), đặc
biệt lúc Đức Giê-su bị treo trên thập gía, “lửa yêu” ấy không thiêu rụi mạo gai
đội đầu Ngài . Thực vậy tình yêu của Đức Giê-su bốc lên như lửa, nên Ngài xin
với Chúa Cha tha tội cho kẻ hại mình (x Lc.23, 34), tức là Ngài không diệt kẻ có
tội, dù họ như gai góc làm nhức đầu Ngài. Vì ai biết sám hối tội xin Chúa
thương xót như anh trộm lành, đều được Chúa đưa vào Thiên Đàng ngay (x Lc.23,
43).
Như thế Ngài lôi kéo kẻ sống vào
Thiên đàng, chứ Ngài không đưa sang thế giới bên kia một xác chết ! Đấy là Chúa
Giêsu đã mạc khải về sự Phục Sinh .
Vậy ngay trong Thánh Lễ này “bụi
gai vẫn bốc cháy”: Lửa tình yêu Chúa Giê-su thiêu rụi tội lỗi và còn ban cho ta
sự sống Phục Sinh, thì ta cũng phải tha thứ cho kẻ xúc phạm đến ta và làm ơn
cho họ, ta mới được đồng danh với Chúa Giê-su là “Con Đấng Tối Cao” (x Lc 1,32
; Lc 6,35). Mà “Con Đấng Tối Cao” nay ở trên trời là dấu chứng bảo đảm cho ta
được ở với Ngài, để ta xác tín như thánh
Phao-lô nói với giáo đoàn Thessalonike :“Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân
sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các
Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì
tốt lành.” (2 Tx.2,16-17). Vì đã noi gương phục vụ như Chúa Giê-su, và được
đồng hiến tế với Ngài mỗi ngày trong niềm tin “khi thức giấc con được thỏa tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv
17/16,15).
Sống được như trên là Chúa Giê-su
đã giúp cho ta sống đúng bổn phận theo ơn gọi, thì ta mới có CHỖ trên Thiên
Đàng, mà Chúa đã về trước để dọn chỗ cho
(x Ga.14, 2), đúng như Lời Kinh Thánh
: “Con hoan hỷ được Ngài cứu thoát”
(Tv 9/9A, 15c : ĐC năm lẻ). Nhưng chúng ta đừng quên rằng “Thiên Chúa chúng ta cũng là lửa
thiêu” (Dt 12,29) ; “Ngài là Đấng
không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử” (1Pr 1,17a).
Kẻ nào sống ác, chỉ lo vơ vét, chiếm đoạt tài sản của người khác, như “vua An-ti-ô-khô, (ông đã chiếm đoạt vàng bạc
nơi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem), rồi ông rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở
Ba Tư có thành Ê-ly-mai, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc, vua đã
tới đó tìm cách chiếm và cướp phá thành, nhưng thất bại, ông phải chạy về
Babylon lòng buồn não ruột. Bấy giờ vua đang ở Ba-Tư, có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân
của vua sang đất Giu-đa đã bị đánh bại. Nghe tin ấy, vua lâm bệnh liệt giường
phiền não, vua cho vời bạn hữu đến và nói : “Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. Tôi tự nhủ :
Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở thế này. Trước kia đang khi cầm
quyền, tôi được hạnh phúc và được yêu mến biết bao! Nhưng bây giờ nhớ lại thời
ở Giê-ru-sa-lem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc, bằng vàng, đã sai người đi
tiêu diệt dân cư ở miền Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại
những hành vị tàn bạo đó. Tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao
nhiêu tai biến, và gờ đây tôi sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn
phiền vô hạn” (1Mcb 6,1-13 : BĐ năm lẻ).
Qua tai họa của vua An-ti-ô-khô
gặp phải, đã minh chứng cho mọi người biết : Vì sống bất lương, sẽ bị khổ đời
này, trở thành dấu chỉ sẽ phải khổ muôn kiếp trong ngày cánh chung ! Chứng minh
Thiên Chúa là lửa thiêu, Ngài thanh tẩy sự ác,chỉ người sống công chính mới
được hưởng hạnh phúc muôn đời trong nước Thiên Chúa.
THUỘC LÒNG
Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là
đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng
lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên
thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. (Lc 20,34-36).