BÀI GIẢNG
THANH TẨY
CHỈ NHỜ PHỤNG VỤ HỘI THÁNH
Đức Giê-su đánh đuổi những kẻ buôn
bán ra khỏi đền thờ Giê-ru-sa-lem, là Ngài đòi mọi người phải quyết liệt dẹp bỏ
mọi lối tế tự không do Ngài thiết lập, dù đó là luật Mô-sê. Vì thế mà Ngài nói
với người phụ nữ xứ Samari: “Giờ đã đến
-và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng
Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng
Người như thế” (Ga 4,23).
“Thờ Thiên Chúa trong Thần Khí và
sự thật”: Thần Khí là Lời Chúa (x Ga 6,63), sự thật là Chúa Giê-su (x
Ga 14,6). Đó là hai phần chính trong Hy Tế của Chúa Giê-su. Thực vậy, Chúa
Giê-su Phục Sinh hiện diện đích thực trong Hy Tế, nên giáo huấn của Công Đồng
Vat.II trong Hiến Chế Phụng Vụ số 7 nói:
“Chúa Ki-tô hằng hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động
Phụng Vụ. Người hiện diện thực sự trong Hy Lễ, không những trong con người của
thừa tác viên, vì “như xưa chính Người đã tự dâng mình trên thập giá, thì nay
chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các Linh mục”, nhất là hiện diện
thực sự dưới hai hình thái Thánh Thể,
Người hiện diện thiết thực trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người ; vì thế,
ai ban Bí tích Thánh Tẩy chính là Chúa Ki-tô ban. Người hiện diện thiết thực
trong Lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh.
Sau hết, Người hiện diện khi Hội Thánh
cầu khẩn và hát Thánh vịnh”.
Do đó,
-
Phụng Vụ ngoài Ki-tô giáo bản chất là trộm cướp.
-
Chỉ có Phụng Vụ của Chúa Giê-su thiết lập mới có giá trị đổi mới con người.
1- PHỤNG VỤ NGOÀI
KI-TÔ GIÁO BẢN CHẤT LÀ TRỘM CƯỚP.
Đức Giê-su kết án người Do Thái
biến Nhà cầu nguyện của Thiên Chúa thành hang trộm cướp (x Lc 19,46: Tin
Mừng),vì ngoài Ngài không ai có thể được cứu độ (x Cv 4,12). Mà thực Chúa Ki-tô
chỉ cứu độ chúng ta, khi chúng ta liên kết với Ngài trong Hội Thánh là Thân Thể
mầu nhiệm của Ngài (x HCHT số 9). Sự liên kết này khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy
và hoàn hảo trong Bí tích Thánh Thể :
a/ Bí
tích Thánh Tẩy tháp chúng ta vào Chúa Giê-su như cành nho được tháp vào thân
nho (x Ga 15).
Đức Giê-su đã nói với ông
Ni-cô-đê-mô: “Quả thật, quả thật, tôi bảo
ông: Ai không sinh bởi nước và Thần Khí thì không thể vào được Nước Thiên Chúa”
(Ga 3,5). Bởi thế khi Đức Giê-su truyền
lệnh cho các môn đệ đi thâu họp muôn dân vào Hội Thánh, Ngài nói: “Chúng con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi
loài thụ tạo, ai tin cùng chịu thanh tẩy thì được cứu, ai không tin sẽ bị luận
tội” (Mc 16,15-16).
“Loài người chỉ là loài thụ tạo” có nghĩa là ai chưa được sinh lại
bởi Lời Chúa, họ chưa phải là người đúng ý Chúa muốn tạo dựng, cùng lắm con
người mới chỉ là loài thụ tạo cao cấp nhất trong các sinh vật. Vì vậy, thánh
Phao-lô nói: “Con người đầu tiên là Adam,
được dựng nên thành một sinh vật” (1Cr 15,45: Bản dịch CGKPV) ; tác giả
sách Giảng viên còn nói: “Thiên Chúa vốn
thử thách con người, để cho nó thấy rằng: mình chỉ là thú vật mà thôi! Quả thế
, con người và thú vật đều có chung một số phận: bên này chết bên kia cũng chết”
(Gv 3,18-19).
Vậy ý định muôn thuở của Thiên
Chúa là con người phải thoát ra khỏi kiếp thú vật, trở nên người được đồng hóa
với Chúa Giê-su (x Gl 2,20), một khi nó được sinh lại trong Chúa Giê-su Phục
Sinh, bởi Lời của Ngài (x Gc 1,18) và bởi chính Ngài (x Cv 2,38).
b/ Bí tích Thánh Thể hoàn tất ta nên một trong Chúa Giê-su Phục Sinh .
Nhiều người đang tìm kiếm bánh vật
chất để ăn cho no bụng, Đức Giê-su nói với họ: “Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại
mãi đến sự sống đời đời, mà Con Người sẽ
ban cho các ngươi, vì chính Ngài là Đấng Cha và là Thiên Chúa đã niêm ấn. Chính
Ta là Bánh hằng sống, ai ăn Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, bởi vì cũng
như Chúa Cha, Đấng hằng sống đã sai Ta, và Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta cũng
vậy, nó sẽ sống nhờ Ta” (x Ga 6,27-58) ; thánh Phao-lô còn nói: “Đấng thánh hóa là Đức Giê-su và những người
được thánh hóa cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, vì thế Ngài không hổ
thẹn gọi họ là anh em” (Dt 2,11.14).
Như thế mọi kiểu tế tự của các tôn
giáo kể cả Do Thái giáo, thực chất không có giá trị thanh tẩy ai, không thể làm
cho con người thoát ra khỏi kiếp thú vật để trở nên giống Thiên Chúa (x St 1,26). Hiệu quả của tế tự ngoài Ki-tô giáo
chỉ đem lợi cho gia đình của các tư tế được no bụng,vì lễ vật dâng ở Đền Thờ
thuộc quyền tư tế sử dụng, nên “họ giả bộ
đọc kinh cho dài, nuốt chửng tài sản bà góa” (Mt 23,14). Lý do đó Đức
Giê-su nói với các tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem: “Các ngươi đã biến Cha Ta thành hang trộm cướp” (Lc 19,46: Tin
Mừng). Bởi thế, Đức Giê-su đã không khoan nhượng, không thỏa hiệp, không cào
bằng Hy Tế của Ngài với mọi thể thức tế tự khác.
Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, một vị sư nổi tiếng ở hải ngoại, trong một lần thuyết pháp, kể câu chuyện :
“Lần kia ác thần
Mara đến thăm đức Phật, ngài hỏi:
-
Sao bạn, kỳ này làm ăn có khấm khá
không?
Mara gắt lên:
- Khá thế nào được. Lúc nào tôi cũng bực tức: Nói
thì phải nói dối, làm thì phải làm ác hại kẻ khác, lại còn phải nghe đầy tớ của
tôi cứ hay bàn về chuyện nhân ái, tha thứ yêu thương, làm tôi muốn điên tiết
lên ! Tôi chỉ ước sớm ngày nào thoát ra
khỏi kiếp này để được làm Phật như ông !
Nghe Mara than trách
thế, đức Phật rất cảm thông, ngài nói :
- Bạn tưởng tôi làm Phật sung sướng lắm sao ?
Các đồ đệ của tôi lợi dụng tôi xây chùa, tạc hình tôi cho chúng sinh cúng bái,
khuyến khích chúng sinh dâng nhiều lễ vật: nào gà, nào xôi, nào trái cây đủ
loại và nhiều món khác v.v… Tôi đâu có dùng những thứ đó, nên sau lễ, mấy vị
chủ trì chùa vơ hết những lễ phẩm đó đưa về phòng hưởng dùng, như thế họ lợi
dụng tôi mà trở nên giàu có. Bởi vậy, nếu bạn biết làm Phật như thế thì tôi tin
chắc bạn sẽ từ chối”.
Ngôn sứ Daniel cũng chứng minh được những kẻ lợi dụng tôn giáo để biến nơi thờ
phượng thành hang trộm cướp :
Dân Babylon thờ thần
Bel, thần này dân coi là vị thần rất linh, mỗi ngày người ta dâng cho thần 12
giạ tinh bột, 40 con bò và 6 chum rượu, thần Bel nhận tất. Nhà vua cũng rất
sùng bái thần, mỗi ngày vua đều tới đền thờ lạy thần Bel. Có lần vua bảo Daniel:
-
Tại sao nhà ngươi không bái lạy thần Bel ?
Daniel thưa :
-
Hạ thần không thể thờ lạy một ông thần do tay phàm nhân làm ra. Hạ thần chỉ thờ
thần sống. Ngài là Đấng dựng nên cả trời đất và làm Chủ trên cả mọi xác phàm.
Vua nói với Daniel :
-
Sao, ngươi cho thần Bel không phải là thần sống ư ? Ngươi lại không thấy thần
Bel ăn uống mỗi ngày sao ?
Daniel cười rộ và nói
:
-
Tâu đức vua, ngài lầm rồi ! vì tượng
thần ấy chỉ là đất thó, bọc đồng bên ngoài, chẳng thể ăn uống được.
Vua nổi giận cho
triệu tập các tư tế đến và nói với họ :
-
Các ngươi mà không nói thật với ta, ai ăn đồ cúng, thì các ngươi sẽ phải chết.
Còn nếu các ngươi chứng minh rằng thần Bel linh thiêng, ăn hết đồ cúng mỗi
ngày, thì Daniel sẽ phải đền mạng, vì y đã lộng ngôn xúc phạm đến thần Bel.
Daniel thưa :
-
Xin y theo lời ngài nói.
Các tư tế thờ thần
Bel gồm 70 người, không kể vợ con của họ. Vua cùng Daniel vào đền thờ thần Bel,
các tư tế đến tâu với vua :
-
Này các bầy tôi đây xin rút lui ra ngoài hết, còn ngài, tâu đức vua, xin ngài
cho để thức ăn và rượu lên tế đàn, đoạn ngài đóng cửa và đóng ấn niêm phong,
sáng mai ngài đến, nếu ngài không thấy thần Bel ăn thì chúng tôi xin chịu tội !
Bằng không thì chính Daniel phải chết, vì hắn đã vu oan cho chúng tôi.
Thế là mọi người đều
ra khỏi đền thờ, riêng Daniel đi sau chót, và đã bí mật rắc tro dưới gầm bàn
thờ.
Khi mọi người đã ra
khỏi đền thờ, vua đóng cửa và niêm phong.
Sáng hôm sau, vua
quan, các tư tế, dân chúng, và cả Daniel đã có mặt tại cửa đền thờ, ai cũng
thấy cửa đền còn niêm ấn, khi cửa đền được mở ra, mọi người nhìn lên tế đàn thì
các lễ vật đặt trên đó đã hết sạch ! Vua òa lên khóc cho số phận Daniel vì phải
đền mạng ! Rõ ràng là thần Bel đã nhận hết lễ vật. Nhưng Daniel nói với vua :
-
Xin đức vua đừng cho ai vào đền thờ, chỉ mình ngài vào và nhìn xuống dưới gầm
tế đàn.
Khi vua đi vào và
nhìn, thì hỡi ôi, nhiều dấu chân lớn nhỏ còn để lại trên lớp tro. Thế là vua đã
theo các dấu chân ấy lần xuống một đường hầm bí mật thông từ gầm tế đàn về tới
nhà vợ con các tư tế! Chính nhờ đường hầm này, họ đã biến đền thờ thành hang
trộm cướp. Vua thịnh nộ sai giết hết các tư tế và vợ con của họ. Còn tượng thần
Bel trao cho Daniel đem phá hủy hoặc làm gì tùy ý” (x Dn 14,1-22).
2- CHỈ CÓ PHỤNG VỤ
CHÚA GIÊ-SU THIẾT LẬP MỚI CÓ GIÁ TRỊ ĐỔI MỚI CON NGƯỜI.
Bởi thế, nếu cứ để cho người ta
đến Giê-ru-sa-lem dâng chiên cừu bò lừa và cầu xin Chúa độ ơn theo ý người dâng
lễ vật, thì không khác gì cách tế tự nơi các chùa chiền mà vị sư Thích Nhất
Hạnh mới chia sẻ như trên, hoặc như dân ngoại dâng lễ tại đền thờ thần Bel. Xưa
kia, thời vua An-ti-ô-khô đã biến đền thờ Giê-ru-sa-lem thành nơi tế tự cho các
ngẫu tượng, đã làm hoen ố Đền Thờ, và khi ông đã bị đánh bại, thì “ông Giu-đa và các anh em nói: “Này, kẻ thù của chúng ta đã bị đập tan,
chúng ta hãy lên thanh tẩy và cung hiến
nơi thánh”. Họ cử hành lễ cung hiến bàn thờ trong tám ngày liên tục, họ lấy các
triều thiên bằng vàng và những tấm biển mà trang trí mặt tiền Đền Thờ, đồng
thời cũng sửa sang các lối ra vào, các phòng ốc và làm lại các cửa phòng”
(x 1Mcb 4,36.56-57: BĐ năm lẻ).
Sự kiện lịch sử ấy là dấu chỉ Chúa
Giê-su vào ngày thứ tám (Chúa nhật) Ngài từ cõi chết sống lại, Ngài hoàn tất
Phụng Vụ của Ngài để thay thế cho phụng vụ Do Thái giáo, và trang hoàng Đền Thờ
của Ngài bằng các ơn thánh như nguồn suối tuôn trào ơn cứu độ từ Đền Thờ (x Ed
47). Giá trị này còn hơn vàng bạc châu ngọc mà ông Giu-đa đã dùng để trang trí
đền thờ Giê-ru-sa-lem. Đặc biệt nhờ Hy Tế của Chúa Giê-su,ta hoàn toàn được
thanh tẩy qua dấu chỉ Chúa bảo ông Gioan: "Hãy đi lấy Cuốn Sách mở sẵn trong tay thiên
thần đang đứng trên biển và đất." Tôi đến gặp thiên thần và xin người cho
tôi Cuốn Sách nhỏ. Người bảo tôi: "Cầm lấy mà nuốt đi! Nó sẽ làm cho bụng
dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật ong.”
(Kh 10, 8-9: BĐ năm chẵn).
“Bụng ụa đắng” tức là ta được thanh tẩy nhờ Lời Chúa và nhờ Chúa
Giê-su ; “miệng ngọt ngào” vì được vì
công bố Lời Chúa sinh ơn cứu độ cho người nghe. Nhờ vậy ta cất lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, con cảm thấy Lời Ngài đã hứa ngọt
ngào hơn mật ong trong miệng.(Tv 119/118,103: ĐC năm chẵn)
Đó là lý do Đức Giê-su vào đền thờ
Giê-ru-sa-lem quyết liệt xua đuổi hạng buôn bán để dành lấy Đền Thờ mà giảng
Lời Chúa hằng ngày, mới xứng đáng là nơi dân Chúa đến cầu nguyện (x Lc 19,47-48: Tin
Mừng). Và như vậy Đức Giê-su đã khẳng
định: “Ai đến Đền Thờ cầu nguyện, họ
phải được thanh tẩy bởi Lời Chúa do Hội Thánh công bố hằng ngày, căn cứ vào các
Bài đọc trong Thánh Lễ để trình bày các mầu nhiệm Đức Tin và những quy tắc cho
đời sống Ki-tô hữu trong suốt chu kỳ năm Phụng Vụ (x HCPV số 24 và 52 ; Ga
18,19-21).
Vậy Lời Chúa được công bố trong
Phụng Vụ chính là Lời Chúa Giê-su (x Lc 10,16). Bởi đó Đức Giê-su nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết
chúng và chúng theo tôi” (x Ga 10,27 :Tung Hô Tin Mừng). Và như vậy, Chúa
Giê-su chỉ dựa trên tiêu chuẩn ai nghe tiếng Ngài qua Hội Thánh mới là chiên
của Ngài, được Ngài chăm sóc, vì “chính
Chúa làm bá chủ muôn loài, nắm trong tay dũng lực quyền năng, nhờ tay Ngài tất
cả đều lớn lên và mạnh sức. Lạy Chúa, xin ca tụng Danh Thánh vinh hiển”
(1Sb 29,12-13: Đáp ca năm lẻ).
THUỘC LÒNG
Chúa Giê-su trách: “Nhà Cha Ta là Nhà
cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp !” (Lc
19,46b)