Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Bài giảng
Thứ 5 sau CN 33 TN năm Chẵn
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC : Kh 5, 1-10
1 Tôi là Gioan, tôi thấy trong tay hữu Đấng ngự trên ngai một cuốn sách viết cả trong lẫn ngoài, niêm bảy ấn.2 Rồi tôi thấy một thiên thần dũng mãnh lớn tiếng công bố: "Ai xứng đáng mở cuốn sách và tháo ấn niêm phong? "3 Nhưng không ai ở trên trời, dưới đất hay trong lòng đất, có thể mở cuốn sách và nhìn vào đó.4 Tôi khóc nức nở, vì không ai được coi là xứng đáng mở cuốn sách và nhìn vào đó.5 Một trong các vị Kỳ Mục bảo tôi: "Đừng khóc nữa! Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giu-đa, Chồi Non của Đa-vít đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong."
 6 Bấy giờ tôi thấy đứng ở giữa ngai và bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con Chiên, trông như thể đã bị giết; Chiên đó có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất.7 Con Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai.8 Khi Con Chiên đã lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là những lời cầu nguyện của dân thánh.9 Các vị hát một bài ca mới rằng:
"Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ,thuộc mọi nước, mọi dân. 10 Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này."
ĐÁP CA : Tv 149
Đ.        Lạy Chúa Ki-tô, Ngài đã làm cho chúng con thành một vương quốc, thành những tư tế để phụng thờ Thiên Chúa chúng con.  (Kh 5,10)
1 Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, ngợi khen Người trong cộng đoàn những kẻ hiếu trung! 2 Hỡi Ít-ra-en, nào hoan hỷ, vì có Chúa là Đấng tạo thành ngươi. Con cái Xi-on, hãy nhảy mừng, vì được Chúa làm Vua hiển trị.
3 Mừng Thánh Danh, nào dâng điệu vũ, nhịp trống hoạ đàn theo khúc hoan ca. 4 Bởi vì Chúa mến chuộng dân Người, ban cho kẻ nghèo hèn được vẻ vang chiến thắng.
5 Kẻ hiếu trung hãy vui mừng rạng rỡ, nào phủ phục mà cất tiếng reo hò, 6a miệng vang lời tán dương Thiên Chúa. 9a Đó là niềm vinh dự cho mọi kẻ trung hiếu với Người.
 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG : x Tv 94,7b.8a
Hall-Hall : Ngày hôm nay, anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa. Hall.
TIN MỪNG : Lc 19,41-44
41 Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương 42 mà nói: "Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được.43 Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề.44 Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm."
 
BÀI GIẢNG
TẠI SAO ĐỨC GIÊSU KHÓC ?
Có nhiều người lầm tưởng khuôn mặt Đức Giê-su rất buồn, vì cả bốn Tin Mừng không tác giả nào ghi Đức Giê-su cười. Trái lại, ông Luca và ông Gioan lại ghi Đức Giê-su khóc. Chúng ta biết buồn quá cũng khóc mà vui quá cũng khóc. Ta hãy tìm hiểu lý do nào khiến Đức Giê-su khóc, để một khi đã biết ý Ngài, chúng ta phải làm cho Đức Giê-su luôn luôn cười đến chảy nước mắt !
I. LÝ DO ĐỨC GIÊ-SU KHÓC THEO THÁNH SỬ LUCA GHI (x Lc 19,41).
Chủ đích của Tin Mừng Lu-ca, ông nhấn mạnh về nhân tính của Đức Giê-su, Ngài có bản tính như mọi người : biết vui, biết buồn, biết sợ, biết đói, biết khát,  ngoại trừ tội lỗi. Để nhấn mạnh Đức Giê-su có nhân tính, ông Lu-ca ghi trước giờ Tử Nạn, Ngài sợ hãi đến toát mồ hôi máu (x Lc 22,44). Với bản tính yếu đuối trong thân phận làm người, Đức Giê-su khóc vì dân Do-Thái không đón nhận Ngài là Đấng cứu độ duy nhất, như các ngôn sứ đã báo cho họ biết trước, thì tai họa sẽ ập xuống trên dân tộc: Ngài nhìn thấy trước cảnh hoang tàn của thành Giê-ru-sa-lem, và dân tộc Ngài bị phân tán khắp mọi dân mọi nước. Thực vậy, vào năm 70 quân Roma thình lình kéo đến vây bủa thành Giê-ru-sa-lem phá bình địa, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, dân Ngài cố thủ và bám vào Đền Thờ như bùa hộ mệnh, thế nhưng kẻ thì bị giết, người thì bị bắt đi đày (x Lc 19,28-44: Tin Mừng).
 Sự cố đau thương này đã khai mở từ lúc Ngài sinh vào đời, cha mẹ Ngài không tìm kiếm được nơi êm ấm trong thành của người Do-Thái để sinh Con, nên Ngài được cha mẹ đặt trong máng cỏ ngoài thành (x Lc 2,7). Vì dân khước từ Đấng Thiên Chúa đã hứa ban để cứu chuộc họ (x St 3,15), do đó Chúa để cho vua Hê-rô-đê ra lệnh truy nã, diệt hài nhi nào có manh nha sinh ra để tiếm quyền của ông, và ăn chắc ông giết tất cả các trẻ sơ sinh tại thành Bét-lem và trong vùng phụ cận, làm cho tổ phụ của họ là bà Ra-ken, vợ ông Gia-cóp, dù đã được an táng cũng đội mồ trỗi dậy khóc thương dòng giống của bà, đến nỗi không ai an ủi được bà, vì con cháu của bà đã không biết đón nhận Đấng Cứu Độ, cho nên chắc chắn hành động dã man của vua Hê-rô-đê truy nã  giết Đức Giê-su trở thành dấu chỉ dòng giống của bà sẽ còn bị khốn nạn hơn thời lưu đày ở Babylon suốt 40 năm (x Mt 2,1-18).
Như vậy tiếng khóc của Đức Giê-su theo thánh sử Lu-ca là tiếng khóc nối dài của bà Ra-ken tổ phụ của họ, vì họ không đón nhận Ngài, thì tới năm 70 dân tộc của Ngài sẽ khổ hơn thời vua Nabukodonosor cho phá Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và bắt dân đi lưu đày bên Babylon. Dưới bàn tay độc ác của vua Nabukodonosor, dân Do-Thái chỉ bị khổ 40 năm, bắt đầu vào năm 587 trước Công nguyên, sau đó Chúa lại dùng vua Cyros, người ngoại giáo xứ Ba-tư giải phóng cho dân tộc Do-Thái khỏi ách nô lệ Babylon, đặc biệt nhà vua còn cung cấp tiền của cho người Do-Thái trở về quê hương tái thiết Đền Thờ, Đền Thờ này rất lộng lẫy và nguy nga, đến nỗi sử gia Flavius tấm tắc khen : “Một trăm vẻ huy hoàng của vũ trụ thì Giê-ru-sa-lem chiếm 90%”.
Thế nhưng, vì dân này cố tình và quyết liệt muốn loại trừ Con Thiên Chúa, Đấng khơi nguồn sự sống từ Do-Thái để bung ra khắp thế giới (x Ga 4,22), nên Đền Thờ nguy nga này và dân tộc của Ngài bị xóa trên bản đồ thế giới đã kéo dài gần 2.000 năm, cho dẫu từ năm 1948, sau Đệ nhị thế chiến, Liên Hiếp quốc tạo điều kiện cho những người Do-Thái lưu vong trở về để tái lập quốc gia, nhưng cho đến ngày hôm nay Israel vẫn không xác định được ranh giới đất nước của mình, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem cũng không thể tái thiết được, bởi vì giữa dân Israel, dòng giống của ông Isaac, con bà Sara, vợ chính thức của ông Abraham, vẫn không ngừng gây chiến với dân Palestin dòng giống của Ismael, con của bà Haga, nữ tỳ của ông Abraham. Như thế, Isaac và Ismael con cùng cha khác mẹ vẫn hăm he chờ thanh toán nhau để chiếm từng mảnh đất cho mình. Ta biết nguyên nhân giữa người Palestin và người Israel luôn gây chiến là tại lỗi bà Sara, vợ ông Abraham, vì Chúa đã hứa cho vợ chồng Abraham và Sara có con (x St 15), thế mà bà Sara lại đưa đứa nô lệ Haga ăn ở với chồng, sinh ra Ismael (x St 16), đến khi bà Sara sinh Isaac, từ bấy giờ giữa Isaac, tổ phụ Israel luôn bất hòa với Ismael, tổ phụ Palestin.Sự cố đau thương này vẫn đang diễn ra và không hy vọng có thời kết thúc. Sự kiện lịch sử này càng chứng minh Lời Đức Giê-su đã tiên báo về số phận dân tộc Do Thái bị ly tán và thành Giê-ru-sa-lem mãi mãi không còn hòn đá chồng trên hòn đá nào, thì làm sao Đức Giê-su lại không khóc về dân tộc của Ngài được ?! Vì Ngài cũng có bản tính người như bà Rakel.
II. LÝ DO ĐỨC GIÊ-SU KHÓC THEO TIN MỪNG GIOAN (11,35).
Đặc biệt thánh sử Gioan khi viết Tin Mừng, ông nhấn mạnh về thiên tính của Đức Giê-su : Đức Giê-su đứng trước cuộc Khổ Nạn, Ngài không run sợ như tác giả Luca ghi : “Toát mồ hôi máu”, mà Ngài rất oai hùng khi nhìn đoàn quân Roma kéo đến vây bắt Ngài, chúng đứng trước mặt Ngài mà không biết Ngài là Giê-su Nazareth để bắt, dù hôm đó có Giu-đa dẫn đầu. Ngài hỏi chúng : “Các ngươi đi tìm ai ?” Chúng thưa : “Chúng tôi đi tìm ông Giê-su Nazareth”. Ngài nói : “Này Ta đây”. Chúng liền giật lùi và bổ ngửa ra hết (x Ga 18,3-6), lúc ấy Đức Giê-su có quyền đạp trên chúng mà đi, nhưng Ngài đã cho phép chúng đứng dậy để bắt Ngài.
Đức Giê-su có bản tính Thiên Chúa oai hùng như thế , nên Ngài biết trước sự chiến thắng của Ngài, do đó khi Ngài đứng khóc trước mộ La-da-rô (x Ga 11,35) là vì quá vui mừng, như Ngài thưa với Chúa Cha : “Lạy Cha, Con biết Cha hằng nhận lời Con là sẽ cho La-da-rô sống lại, để cho mọi người nhận biết Cha đã sai Con đến để cứu họ, nên Con hằng tạ ơn Cha” (x Ga 11,41b-44). Đó là lý do Ngài đã xác định với bà Matta, chị của La-da-rô đã chết : “Em con sẽ sống lại, phục sinh và sự sống chính là Ta” (Ga 11,23-25). Đây là sự chiến thắng của Đấng Toàn Năng, chỉ duy mình Đức Giê-su đánh gục thần chết, giải thoát những ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời, còn niềm vui nào lớn lao hơn ! Vì Ngài quá vui mừng mà khóc, bởi Ngài đã nói với các môn đệ rằng : “Ta mừng, vì không có Ta ở bên La-da-rô, nên La-da-rô ngủ (chết) và Ta sẽ đến đánh thức ông dậy” (Ga 11,11-15).
Tuy nhiên ông Gio-an cũng không phủ nhận Đức Giê-su có bản tính loài người, nên Ngài khóc là khóc cho dân của Ngài, vì sau phép lạ Ngài làm cho La-da-rô sống lại, Ngài không làm một phép lạ nào nữa, vì đây là dấu Ngài đã đạt mục đích vào trần gian để làm cho loài người dù chết cách nào cũng được sống lại, ai tin vào Ngài thì khỏi phải chết và được sống muôn đời. Ta biết Tin Mừng Gioan chỉ ghi bảy phép lạ Đức Giê-su thực hiện, trở thành dấu chỉ về cuộc sáng tạo mới, mở đầu Đức Giê-su hóa nước thành rượu nho (x Ga 2,1t), thứ hai là Đức Giê-su cho con ông sĩ quan ngoại giáo thoát tay tử thần (x Ga 4,43t), thứ ba là Đức Giê-su chữa lành người bất toại 38 năm nằm bên bờ hồ có năm dãy hành lang (x Ga 5,1t), thứ bốn là Đức Giê-su hóa bánh nuôi dân ăn no nê (x Ga 6,1t), thứ năm là Đức Giê-su đi trên mặt nước đến với thuyền các môn đệ gặp sóng gió (x Ga 6,16t), thứ sáu là Đức Giê-su chữa lành cho người mù từ thuở mới sinh (x Ga 9,1t), cuối cùng, thứ bảy là Đức Giê-su cho La-da-rô đã an táng bốn ngày trong mồ được sống lại (x Ga 11). Nhìn vào bố cục bảy phép lạ trên, ta thấy mở đầu nước hóa thành rượu nho là dấu chỉ nhờ nước Thánh Tẩy ta được tháp vào Đức Giê-su là cây nho thật (x Ga 15), để được sống đời đời, qua dấu chỉ Đức Giê-su cho anh La-da-rô sống lại. Chỉ khi nào loài người được Chúa cho từ cõi chết sống lại, công trình sáng tạo của Thiên Chúa mới hoàn hảo.
Nhưng tiếc rằng những người Do-Thái chứng kiến phép lạ ấy, đặc biệt là những vị kỳ mục của dân lại tỏ ra phẫn uất, quyết liệt loại trừ Ngài và đòi giết luôn cả La-da-rô (x Ga 11,45-53 ; 12,10) Họ đã loại trừ Giê-su là nguồn sống thì không thể có sự sống nơi họ (x 1Ga 5,12). Ông Gio-an lại ghi Đức Giê-su có lòng thương cảm chị em Mát-ta và Ma-ri-a cùng với những người thân của gia đình này đang khóc nức nở trước mộ La-da-rô làm cho Đức Giê-su bực dọc tâm thần và xao xuyến cả mình, vì Ngài nhìn thấy nhiều người chưa đủ Đức Tin nhận ra Ngài có quyền cho kẻ chết sống lại, họ tưởng Đức Giê-su khóc chỉ vì thương gia đình Mát-ta và Ma-ri-a, nên họ nói với nhau : “Ngài thương ông ấy dường nào” (x Ga 11,36). Nhưng câu đó lại trở nên lời tiên báo : Đức Giê-su thương La-da-rô vì dẫu Ngài cho anh sống lại, thì các đầu mục Do-Thái lại quyết định giết luôn cả La-da-rô (x Ga 12,10). La-da-rô trước đã chết vì bệnh, thì không sợ bằng sau này chết vì sự ghen tỵ của bọn đầu mục đối với Đức Giê-su. Với sự lỳ lợm của các đầu mục Do-Thái như thế, chứng tỏ dân tộc của Ngài không đón nhận được sự sống, đó là lý do Ngài khóc !
Vậy cả hai tác giả Lu-ca và Gio-an khi ghi nhận Đức Giê-su khóc, hai ông này đã chung một ý là với bản tính nhân loại, Ngài thương dân tộc của Ngài, vì ngay từ thời vua An-ti-ô-khô, nhiều  người Do-Thái đã bỏ Luật Mô-sê đi tôn thờ các ngẫu tượng của dân ngoại, mà vua này đã ra lệnh cho toàn dân phải tuân theo, ai làm theo lệnh vua thì được sống và hưởng nhiều bổng lộc, kẻ bất tuân thì sẽ bị giết. Chỉ có ông Mát-tít-gia, là đầu mục Do-Thái, cùng các con của ông thì quyết tâm không bỏ Luật Chúa ban qua ông Mô-sê, dù vua dụ dỗ và hứa ban cho ông Mát-tít-gia nếu ông theo ý vua thì được chức vụ cao trong triều đình và hưởng nhiều vàng bạc châu báu. Nhưng ông Mát-tít-gia ý thức mình là thủ lãnh của dân Do-Thái, ông thề không theo lệnh vua để hưởng bổng lộc mà làm cớ cho dân tộc ông bắt chước. Lúc ấy ông nhìn thấy có người Do-Thái ra tế lễ ngẫu thần ở Mô-đin, lòng ông sôi sục vì có kẻ lỗi Luật Mô-sê, ông xông vào hạ sát hắn, và phá hủy tế đàn, rồi ông cùng cả gia đình với một số người còn trung thành với Luật Mô-sê trốn lên núi (x 1Mcb 2,15-29 : Bài đọc năm lẻ). Thế mà Đức Giê-su nhìn các đầu mục Do-Thái vào thời của Ngài chẳng ai còn có Đức Tin giống ông Mát-tít-gia tổ phụ các thủ lãnh của họ, thì những mục tử độc ác này sẽ dẫn toàn dân Do-Thái sa xuống vực thẳm chung cư với tử thần, làm sao Đức Giê-su không khóc thương họ được ?!
Lối sống đạo của một người Do Thái tiến ra tế thần Mô-đin theo lệnh vua An-ti-ô-khô, chẳng khác nào lối sống đạo của dân Do Thái chối từ không tôn thờ Chúa Giê-su Phục Sinh, mà cứ bám vào lối tế tự theo Luật Mô-sê, làm cho ông Gioan khóc nức nở, vì không ai xứng đáng mở Cuốn Sách (Tân Ước), và nhìn vào đó hòng được cứu độ (x Kh 5,4 : BĐ năm chẵn). Mãi cho tới khi “sư tử xuất thân từ chi tộc Giu-đa” (Tin Mừng Marco được công bố), chồi non của Đa-vit đã chiến thắng. Người sẽ mở Cuốn Sách và bảy ấn niêm phong (x Kh 5,5 : BĐ năm chẵn). Thực vậy, Tin Mừng của Marco được công bố đầu tiên vào khoảng năm 60. Nhờ Tin Mừng này mà loài người  nhận biết Con Thiên Chúa là Chúa Giê-su Phục Sinh, Đấng đầy sức mạnh (bảy sừng) và là Đấng khôn ngoan (bảy mắt), “tức là bảy thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. Con Chiên đến lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai Khi Con Chiên đã lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là những lời cầu nguyện của dân thánh. Các vị hát một bài ca mới rằng:"Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ,thuộc mọi nước, mọi dân.  Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này."  (Kh 5,6-10 : BĐ năm chẵn).
Vì từ khi Con Thiên Chúa vào đời, Chúa Cha chỉ nhận của lễ “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng đã hiến mạng cứu loài người tội lỗi” (Ga 1,29). Vì thế, Chúa Giê-su đã nói với người phụ nữ Samari : “Giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Kẻ bỏ Thiên Chúa mà tế thần Mô-đin làm cho ông Ma-tít-gia sôi máu, ông xông vào hạ sát hắn, và phá hủy tế đàn thờ ngẫu tượng (x 1Mcb 2, 23-24 : BĐ năm lẻ). Thì vào thời Tân Ước, Chúa khiến cho quân Roma sôi máu xông lên giết tất cả dân tộc Do Thái, phá tan Đền Thờ Giê-ru-sa-lem không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào!(x Lc 19,44 : Tin Mừng), để chấm dứt lối tế tự của Do Thái giáo vào năm 70 ! Biến cố đau thương này lại trở thành dấu chỉ vào ngày cánh chung, Chúa để cho satan sôi máu diệt hết mọi kẻ chống đối Ki-tô giáo, không muốn kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh, để tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Bởi vì, vào ngày cánh chung Chúa chỉ cứu những ai đã từng tham dự Phụng Vụ của Hội Thánh mà cầu nguyện “lạy Chúa Ki-tô, Ngài đã làm cho chúng con thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng con” (Kh 5,10 : ĐC năm chẵn).
Vậy “ngày hôm nay anh em chớ cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa” (Tv 95/94, 7b-8a : Tung Hô Tin Mừng), để sống đạo theo gương ông Mát-tít-gia, đó là “người sống đời hoàn hảo, Chúa cho hưởng ơn cứu độ của Ngài” (Tv 50/49, 23b : Đáp ca năm lẻ).
Một nhà sinh vật học, khi đi tìm kiếm các sinh vật để khảo cứu, ông đi vào một hang động có rất  nhiều dơi đậu hai bên vách đá, nhưng ông không thấy những con dơi lớn, ông hiểu là chúng đi kiếm ăn, chỉ còn lũ dơi con đang bám tòng teng trên vách đá. Ông bắt tất cả các dơi con về nghiên cứu. Hôm sau ông trở lại hang, ông vô cùng kinh ngạc khi thấy xác những con dơi lớn. Ông lại lượm xác chúng về khảo cứu, xem lý do nào chúng chết hàng loạt như thế! Cuối cùng ông cũng khám phá ra hai điều :
-    Những con dơi bị chết đều là những dơi mẹ.
-    Giải phẫu chúng thì thấy tất cả đều bị đứt ruột mà chết.
Dơi mẹ biết thương con  như thế, cũng chỉ vì Thiên Chúa đã phú bẩm cho nó. Vậy Thiên Chúa chính là Tình Yêu (1Ga 4,8), thì Ngài còn thương chúng ta hơn biết mấy khi satan bước vào trần gian thu góp những kẻ chống đối Đức Giê-su đưa về sào huyệt của nó chung sống!
THUỘC LÒNG

Anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em. (1 Cr 3,16-17)

 

Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: