BÀI GIẢNG
TRONG TAY CHÚA GIÊ-SU VÀ MẸ
MARIA
MỚI TUYỆT VỜI !
Ta biết ơn cứu độ loài người Thiên
Chúa thực hiện không chỉ dựa trên tình thương của Chúa Giê-su, mà còn được tình
thương của Mẹ Maria cộng tác với Chúa. Chân lý này Chúa Giê-su đã diễn tả qua
hai dụ ngôn: Chiên lạc trở về và người đàn bà có mười đồng bị mất một phải tìm
cho đủ.
1/ DỤ NGÔN TRĂM CON
CHIÊN DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA CHÚA MUỐN QUY TỤ MỌI NGƯỜI VÀO HỘI THÁNH.
Nếu ta cắt nghĩa dụ ngôn con chiên
lạc theo nghĩa đen, thì thật là vô lý ! Vì người nuôi chiên, ai cũng mong vắt
được nhiều sữa, lấy được nhiều thịt, đạt kinh tế cao. Thế thì 99 con chiên
không lạc làm cho chủ có nhiều lợi tức hơn, vậy tại sao chủ không vui mừng khi
99 chiên không lạc, mà lại rất vui khi một con trở về, liệu nó có đem lại nhiều
lợi tức cho chủ hơn 99 con kia không?!
Bởi đó, muốn hiểu đúng ý nghĩa và
giá trị của dụ ngôn chiên lạc, ta phải biết số 100 mang ý nghĩa được Thiên Chúa chúc phúc. Nên ngôn sứ Isaia
nói: “Ai chưa tròn 100 tuổi mà chết là
dấu bị nguyền rủa” (Is 65,20).
Thế thì Chúa Giê-su hữu ý chọn 12
môn đệ làm nên Israel
mới (x Lc 6,12-13), đây là dân được Chúa chúc phúc , nhưng cuối cùng chỉ còn
11, vì Giu-đa đã tự tử (x Cv 1,18). Nên sau khi Chúa Giê-su từ cõi chết sống
lại, Ngài đã chọn kẻ lạc đạo là Sau-lô vào hàng môn đệ, để làm tròn ý nghĩa con
số 12 mà Ngài đã định từ trước.
Thực vậy, khi chiên lạc Sau-lô trở
về ràn, ông đã không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5), xét về
lượng cũng như về phẩm:
1) Về lượng: Nếu ta gạch bỏ hết những lời ông
Phao-lô nói trong Tân Ước, thì cuốn Kinh Thánh Tân Ước chẳng còn được bao
nhiêu! Và một mình ông Phao-lô thành lập được nhiều giáo đoàn như Cô-rin-tô,
giáo đoàn Ga-lát, giáo đoàn Ê-phê-xô, giáo đoàn Phi-líp-phê, giáo đoàn
Cô-lô-xê, giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-kê. Nếu ông Phao-lô không trở về, thì có lẽ
đạo Chúa đã bị ông khai tử từ lúc ông hằm hừ thở ra mùi sát khí, lãnh trát các
thượng tế, xông tới Đa-ma triệt hạ hết những ai tin vào Đức Giê-su, và hôm nay
thế giới chưa ai được biết Chúa !?
2) Về phẩm: Giáo lý của thánh Phao-lô giảng
dạy về Đức Giê-su vô cùng phong phú và sâu sắc. Đến nỗi có nhiều người cho là
Đức Giê-su không lập Hội Thánh Công
Giáo, mà là thánh Phao-lô ! Và như vậya, chúng ta biết thánh Phao-lô không đơn
phương độc mã trở về với Chúa, mà ông còn trở thành chiên đầu đàn dẫn cả dân ngoại, trước đây không thuộc về đàn chiên
của Đức Giê-su, nay được ở trong chuồng chiên, chính là Hội Thánh, dưới sự chăm
sóc, dẫn dắt của Mục Tử Giê-su! Vì thế, thánh Tông Đồ đã khoe với ông
Ti-mô-thê, môn đệ ông rằng: “Đức
Giê-su bước vào trần gian để cứu những
người tội lỗi, trong số đó tôi là người thứ nhất !” (1Tm 1,15) Người thứ
nhất ở đây không phải là người đầu tiên được Chúa cứu, mà là mẫu trở về với Đức
Giê-su cho tất cả mọi người. Hiểu như
thế, chúng ta mới biết giá trị câu nói của Đức Giê-su : “Khi người tội lỗi ăn năn sám hối trở về, thì cả tầng trời rúng lên vì
niềm vui mừng!” (Lc 15,7a). Thế thì :
§ Trong gia đình, người bố là chiên đầu đàn, như sách
Huấn ca 30,4 nói: “Người bố dù có tắt thở
ông cũng chưa chết, vì ông đã để lại con cái giống hệt ông!”
§ Trong một giáo xứ: Cha Sở là chiên đầu đàn. Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-ney nói: “Linh mục thánh thiện, thì giáo dân đạo đức
; Linh mục đạo đức, thì giáo dân tầm
thường ; Linh mục tầm thường, thì giáo dân ra quỷ!” Vậy nếu Linh mục mà ra
quỷ, thì giáo dân còn độc ác hơn quỷ vương Beelzebul !!
§ Trong địa phận, Giám mục là chiên đầu đàn. Thánh Au-gút-tin nói: “Làm Giám mục cho anh em, tôi rất lo sợ, làm tín hữu với anh em, tôi rất
an tâm. Vì Giám mục chỉ là một chức vụ, tín hữu mới là một ân phúc. Giám mục là
một danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ!” (x HCHT số 32)
Chính vì vậy mà bất cứ Thánh Lễ
nào, sau lời truyền phép, lời cầu nguyện đầu tiên là cho Giám mục thủ lãnh
(Giáo hoàng), và Giám mục địa phận, vì
các vị này mới là người quyết định làm cho Hội Thánh được bốc lên
Bởi vì mỗi giáo phận là một Hội
Thánh vẹn toàn, vì Giám mục là hiện thân Tông Đồ của Đức Giê-su, là thầy dạy
Đức Tin. Nên việc canh tân sống đạo của mọi thành phần trong Giáo phận hoàn
toàn lệ thuộc vào Giám mục địa phận. Do
đó nếu có giáo dân hay Linh mục nào giống thánh Phao-lô, thì cũng chỉ là “đèn
chói mắt”, làm nhức đầu người khác ! Nhưng nếu Giám mục là một Phao-lô mới, thì
sẽ làm bốc lên sức sống đạo của dân Chúa trong địa phận, trở thành bó đuốc sáng,
thành đèn hải đăng soi dẫn muôn dân tìm về ràn chiên của Đức Giê-su ! Thực là
buồn cho Hội Thánh Chúa, suốt hơn 20 thế kỷ nay, mới chỉ có một Giám mục
Phao-lô mà thôi !
Chính vì sứ mệnh của Giám mục
trong địa phận quan trọng như vậy, nên giáo
huấn của Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Hội Thánh số 25 dạy: “Việc rao giảng Phúc Âm là một nhiệm vụ trổi vượt trong các nhiệm vụ chính
yếu của Giám mục, Giám mục là những người rao truyền Đức Tin, đem nhiều môn
đệ mới về cho Chúa Ki-tô. Giám mục là những tiến sĩ đích thực, nghĩa là có uy
quyền của Chúa Ki-tô, giảng dạy cho
những kẻ được trao phó cho các ngài”. Đối với các Linh mục, Giáo
Luật số 773 và 776 đã buộc: “Cha Sở phải
lo huấn luyện giáo lý cho người lớn, thanh niên và trẻ em. Cha Sở phải cổ võ và
thúc đẩy cha mẹ chu toàn bổn phận dạy giáo lý trong gia đình. Đây là nhiệm
vụ riêng biệt và nặng nề trong việc dạy giáo lý cho dân Chúa”.
Qua lời giáo huấn trên, ước gì
hàng giáo sĩ làm đúng nhiệm vụ ngôn sứ Hội Thánh đã truyền là bài giảng phải
liên kết các Bài đọc Hội Thánh đã chọn trong Phụng Vụ, từ đó trình bày các mầu
nhiệm Đức Tin và những quy tắc cho đời sống Ki-tô hữu (x HCPV số 24 + 52). Nếu
không dựa trên nguyên tắc này để giảng giải, thì sự cố tháp Babel thuở xưa lại tái diễn: Con cháu Noe
phải tản đi khắp mọi nơi, bỏ dở công trình xây tháp, vì mỗi người nói mỗi kiểu
! (x St 11)
Giám mục Phao-lô đã trở thành mẫu
cho các Giám mục khác, ông đã hiên ngang hãnh diện trong Đức Ki-tô mà nói: “Tôi không dựa vào xác thịt của mình, dù tôi
là dòng dõi Israel, họ Benjamin, giữ Luật thì đúng như một người Biệt phái,
nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh. Nhưng những gì xưa kia tôi cho là có
lợi, thì nay vì Đức Ki-tô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự
là thiệt thòi so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giê-su Ki-tô,Chúa của
tôi” Pl 3,3-8).
Như thế các Giám mục phải là hiện
thân Phao-lô trở về canh tân đời sống Đức Tin của mình, để trở thành chiên đầu
đàn cho cộng đoàn dân Chúa đã được trao phó cho các ngài dẫn dắt.
2/ DỤ NGÔN NGƯỜI ĐÀN
BÀ CÓ 10 ĐỔNG BỊ MẤT 1 DIỄN TẢ TÌNH THƯƠNG CỦA MẸ MARIA.
Vì ta biết số 10 mang ý nghĩa vẹn toàn, như Mười Điều Răn của Chúa, ám chỉ ai
tuân giữ là người hoàn hảo trong Chúa.
Chúng ta lại biết Chúa Giê-su là
Thiên Chúa toàn năng, mà trong đời hoạt động công khai của Ngài còn cần đến Mẹ
Maria cộng tác, từ khởi sự (x Ga 2) cho đến hoàn thành (x Ga 19). Trong lời
kinh chúng ta hay cầu nguyện: “Từ khởi sự
cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen” ; thì Đức Giê-su cũng có
quyền nói: “Từ khởi sự cuộc đời rao giảng
của tôi cho đến lúc hoàn tất trên thập giá, tôi đều nhờ Mẹ cộng tác. Amen!”
Bởi thế Mẹ Maria có trách nhiệm
làm cho công việc của Con Mẹ được trở nên hoàn hảo, cụ thể Mẹ muốn môn đệ của
Đức Giê-su phải vẹn toàn về lượng cũng như về phẩm chất. Nhưng Mẹ luôn bị đặt
vào tình trạng lo âu, vì thiếu sự vẹn toàn nơi các ông :
§ Số môn đệ của Đức Giê-su phải là
12, thế mà bị mất Giu-đa đã tự tử, Mẹ đau đớn nhất.
§ Lúc Mẹ đứng dưới chân thập giá, Mẹ
muốn đón nhận cả 11 môn đệ còn lại cũng phải là con của Mẹ. Nhưng lúc ấy chỉ có
Gioan được Đức Giê-su trao cho Mẹ. Ông Gioan được vinh dự này vì ông đã can đảm
vượt mọi sợ hãi, chứ không như 10 môn đệ kia đã nhớ Lời Thầy nói: “Tôi tớ không trọng hơn chủ, nếu người ta đã
bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,20), nên họ đã bỏ chạy
hết ! Người đàn bà kia có 10 đồng mất 1 đã làm bà lo lắng đi tìm kiếm, huống
chi ở đồi Sọ, 11 môn đệ Đức Giê-su lại trốn mất 10, thì làm cho Mẹ lo lắng biết
mấy! (x Ga 19,25-27)
§ Khi Chúa Giê-su Phục Sinh đến với
các môn đệ vào ngày Chúa nhật (dâng Lễ), Ngài chỉ gặp có 10 môn đệ, thiếu ông
Tôma, chắc chắn Mẹ không vui gì. Một tuần sau ông Tôma mới trở về với cộng đoàn
vào ngày Chúa nhật (dâng Lễ), thì làm cho Mẹ vui mừng biết chừng nào! (x Ga
20,19t)
Thế thì một Ki-tô hữu tôn thờ Chúa
và kính yêu Mẹ, càng cần có Mẹ ở bên, nhưng Chúa Giê-su chỉ muốn trao Mẹ Thánh
Ngài cho, khi ta vượt mọi rào cản, không sợ mất thời giờ đi dâng Lễ mỗi ngày.
Mà có ai sở hữu được thời giờ đâu? Vì “Thời giờ là của Thiên Chúa” (lời công bố
khi làm Phép Nến trong đêm Phục Sinh). Rõ ràng thời giờ không thuộc quyền sở
hữu của ai, mà người ta lại sợ mất! Một sự sợ hãi không tưởng, đến nỗi không
vượt qua để đến dâng Lễ với Chúa Giê-su, thì làm sao đón Mẹ Maria về nhà mình
như ông Gioan được !
Vậy qua hai dụ ngôn: Con chiên lạc
và đồng bạc mất đều tìm được, đã diễn tả Chúa Giê-su và Mẹ Maria rất sung sướng
khi thấy có thêm người gia nhập Hội Thánh, cũng như vui mừng vì mọi Ki-tô cùng hữu
hiệp dâng Thánh Lễ để được Chúa Giê-su Phục Sinh làm Chủ từ cảm nghĩ, lời nói
đến việc làm của họ, hầu xứng đáng một cuộc sống làm con Chúa, con Mẹ, như lời
thánh Tông Đồ nói: “Không ai được sống
cho chính mình, cũng không ai được chết cho chính mình. Dù sống, dù chết, ta
đều thuộc về Chúa. Nếu ta không sống như thế thì ta sẽ phải trả lẽ về chính
mình trước mặt Thiên Chúa” (Rm 14,7-12).
Bởi vì “chỉ có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào!
Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi, tôi
khiếp gì ai nữa! Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong Đền Chúa tôi
(dự Lễ), mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang. Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,1.4.13).
Bà cố của Đức Giáo hoàng Gio-an
Phao-lô II qua đời sớm, lúc ấy cậu Karol Wojtyla mới 7 tuổi, cậu đứng bên
giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở vì sắp mất mẹ. Lúc ấy, người mẹ trở mặt
ra âu yếm nhìn cậu và thì thào: “Con đừng khóc nữa, mẹ này chỉ là vú nuôi
con, mẹ thật của con là Mẹ Maria. Khi người vú này qua đi, thì người mẹ thật
của con chắc chắn phải ra tay chăm sóc con hơn người vú này. Con cứ an tâm”.
Nói đoạn, bà tắt thở về với Chúa. Từ bấy giờ trở đi cậu Karol Wojtyla ôm ấp
người Mẹ thật trong tim, lúc nào cậu cũng cầu nguyện với Mẹ Maria, đặc biệt
trong thời đi lính, trong túi cậu luôn có cuốn sách nói về các nhân đức của Mẹ.
Karol Wojtyla luôn tìm giờ để nghiền gẫm cuốn sách đó. Chắc chắn vì lòng sùng
kính Mẹ Maria từ lúc 7 tuổi mà khi ngài lên ngôi Giáo hoàng ngày 18/10/1978,
ngài giữ chức vụ này lâu đứng hàng thứ 4 so với các vị tiền nhiệm, và trong
suốt thời gian ở ngôi Giáo hoàng, ngài đã tỏ ra một vị mục tử xuất sắc bậc
nhất, đặc biệt trong thế kỷ 20. Nếu không có ngài, có lẽ thế giới hôm vẫn còn
hai khối Cộng sản và Tư bản đố kỵ nhau.
Karol Wojtyla thành công như thế
trong sứ mệnh kế vị thánh Phê-rô chăm sóc Hội Thánh, âu cũng chỉ vì nhờ bà cố
trước giờ chết (giống Chúa Giê-su) gởi Karol Wojtyla cho Mẹ Maria chăm sóc, nhờ
đó mà Karol Wojtyla sống xứng danh làm con Thiên Chúa, làm con Đức Mẹ, là mục
tử gương mẫu cho đoàn chiên suốt 27 năm trong ngôi Giáo hoàng.
THUỘC LÒNG-
- Chúa luôn gìn giữ tôi chẳng khác gì con ngươi mắt Ngài (Dnl 32,10).
- Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón
nhận con (Tv 27/ 26,10)