BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
LỄ I
BÀI ĐỌC I : G 19, 1.23-27a
1 Bấy giờ, ông Gióp lên tiếng nói: 23
Ôi, những lời tôi nói đây, phải chi có người chép lại,phải chi có người ghi vào
sách,24 có người đục bằng sắt, trám bằng chì, tạc vào đá cho đến
muôn đời! 25 Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng,
Người sẽ đứng lên trên cõi đất. 26 Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì
với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. 27 Chính tôi sẽ được
ngắm nhìn Người,Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ”.
ĐÁP CA : Tv 26
Đ. Tôi vững
vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống. (c 13)
1 CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu
độ của tôi, tôi còn sợ người nào? CHÚA là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp
gì ai nữa?
4 Một điều tôi kiếm tôi xin, là
luôn được ở trong đền CHÚA tôi mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng
CHÚA tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng.
7 Lạy CHÚA, cúi xin Ngài nghe tiếng
con kêu, xin thương tình đáp lại. 8b
Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan Ngài,9a xin Ngài đừng ẩn
mặt.
13 Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được
thấy ân lộc CHÚA ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. 14 Hãy cậy
trông vào CHÚA, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào CHÚA.
BÀI ĐỌC II : Rm 5, 5-11
5 Thưa anh em, trông cậy không làm
chúng ta phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng
ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.6 Quả vậy, khi chúng ta
không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức
Ki-tô đã chết vì chúng ta.7 Hầu như không ai chết vì người công
chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng.8 Thế
mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.9 Phương chi bây giờ
chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được
Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.10 Thật vậy, nếu ngay khi
chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải
chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ chúng ta đã
được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy.11
Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa.
LỄ II
BÀI ĐỌC I : Is 25,6a.7-9
6a Ngày ấy, trên núi này,ĐỨC CHÚA
các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc:7 Trên núi này, Người sẽ
xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. 8
Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng
lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục
của dân Người. ĐỨC CHÚA phán như vậy. 9 Ngày ấy, người ta sẽ nói:
"Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được
Người thương cứu độ.Chính Người là ĐỨC CHÚA chúng ta từng đợi trông. Nào ta
cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ."
ĐÁP CA : Tv 24
Đ. Lạy Chúa,
chẳng ai trông cậy Chúa, mà lại phải nhục nhằn tủi hổ. (c 3a).
6 Lạy CHÚA, nghĩa nặng với ân sâu
Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. 7c Xin lấy tình thương
mà nhớ đến con cùng.
17 Lòng đau như thắt, xin làm cho
thanh thoả, và giải thoát con khỏi bước ngặt nghèo. 18 Xin Chúa thấy
cho cảnh lầm than khổ cực và tha thứ hết mọi tội con.
20 Xin bảo toàn sinh mạng và giải
thoát con, đừng để con tủi nhục, bởi vì con ẩn náu bên Ngài. 21 Ước
gì lòng trong sạch và ngay thẳng che chở giữ gìn con, vì con trông cậy Chúa.
BÀI ĐỌC II : Rm 8, 14-23
14 Thưa anh em, phàm ai được Thần
Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa.15 Phần anh em,
anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt
như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được
kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi! "16 Chính Thần Khí chứng thực cho
thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.17 Vậy đã là
con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa
kế với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được
hưởng vinh quang với Người.
18 Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây
giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.19
Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang
của con cái Người.20 Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không
phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn
niềm trông cậy21 là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ
thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và
vinh quang.22 Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn
loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở.23 Không
phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh
nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn
quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa.
LỄ III
BÀI ĐỌC I : 2 Mcb 12, 43-45
43 Khi ấy, ông Giu-đa Ma-ca-bê quyên
góp được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng lễ đền
tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống
lại.44 Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã
xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu
xuẩn.45 Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những
người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức, thì đây là một ý nghĩ đạo đức và
thánh thiện. Đó là lý do khiến ông xin dâng hy lễ đền tội cho những người đã
chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi.
ĐÁP CA : Tv 41
Đ. Linh hồn
con khao khát Chúa Trời,
là Chúa Trời hằng sống. (c 3a)
2 Như nai rừng mong mỏi tìm về suối
nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.
3 Linh hồn con khao
khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn
Nhan?
5bcd Tôi tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa, cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ, giữa sóng người trẩy
hội tưng bừng.
BÀI ĐỌC II : Kh 21, 1-5a.6b-7
1 Bấy giờ tôi thấy trời mới đất
mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa.2 Và
tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống,
sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang.3 Rồi tôi nghe từ
phía ngai có tiếng hô to: "Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại,
Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là
Thiên-Chúa-ở-cùng-họ.4 Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không
còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ
đã biến mất."
5a Đấng ngự trên ngai phán:
"Này đây Ta đổi mới mọi sự. 6b Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi
Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường
sinh, mà không phải trả tiền.7 Ai thắng sẽ được thừa hưởng hồng ân
đó. Ta sẽ là Thiên Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta.”
BÀI GIẢNG
LỄ I
THÁNH THỂ, NGUỒN HẰNG
SỐNG
Đối với niềm tin của người Công Giáo sự chết không phải là
tận tuyệt, ai đã được sống kết hợp với Chúa Giê-su thì cũng được chết trong
Ngài, mà ai đã cùng chịu đau khổ với Ngài, thì cùng được chia phần vinh phúc
vĩnh hằng trong thế giới Phục Sinh. Do đó, dù sống đời này ta còn gặp đau khổ
như ông Gióp : nội trong một ngày Chúa cho ma quỷ diệt hết tài sản và con cái
của ông, nó còn làm cho thân xác ông lở loét từ đầu đến chân, khiến bà vợ không
muốn nhìn ông mà còn mỉa mai Đức Tin của ông. Nhưng nhờ ông Gióp tin vào sự
sống lại : “Đấng bênh vực tôi hằng sống, và sau cùng Người sẽ đứng lên
trên cõi đất. Sau khi da thịt tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân này tôi sẽ
được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn
thấy, không phải người xa lạ” (G 19,25-27 : Bài đọc I).
Đối với người Công Giáo sống Đức Tin và yêu Chúa hết lòng
hết linh hồn hết trí khôn, thì nỗi đau khổ nhất của họ là cảm nghiệm chính mình
gặp yếu đuối tư bề, điều tốt muốn lại không làm, điều xấu ghét lại cứ thi hành
(x Rm 7,18-19). Nếu không có Chúa ra tay cứu vớt, thì với con người tội lỗi ấy
đã thuộc về quyền quản lý của thần chết, nên ta “không có sức làm được việc
gì, vì còn là hạng vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta”
(Rm 5,5-11 : Bài đọc II). Như thế Đức Ki-tô đã không tiếc chúng ta điều gì, nên
bây giờ cho “dù chúng ta còn phải chết vì tội đã phạm, thì Thánh Thần cũng
làm cho chúng ta được sống, vì chúng ta đã được trở nên công chính trong Chúa
Giê-su” (Rm 8,10). “Trở nên công chính trong Chúa Giê-su”, có nghĩa
là được kết hợp với Chúa Giê-su Thánh Thể, vì Ngài là nguồn sống. Bởi thế Ngài
nói : “Tất cả những người Chúa Cha đã ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai
đến với tôi sẽ không bị loại ra ngoài, vì tôi từ trời mà xuống, không phải để
làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi
là tất cả những kẻ Người ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho
họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy
Người Con và tin vào Người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống
lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 37-40 : Tin Mừng).
Vậy “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa
ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13 : Đáp ca).
Ta biết rằng khi ta được hiệp thông Thánh Thể, thì ta trở
nên chi thể của Chúa Giê-su một cách hoàn hảo, không phải chỉ có ta mà còn có
tất cả những người được Chúa Giê-su cứu độ, cũng là chi thể của ta trong Ngài.
Các chi thể trong một thân mình, chi thể này được tồn tại và phát triển là nhờ
sống cho chi thể khác và ngược lại. Nói tắt : chăm sóc đồng loại chính là chăm
sóc các chi thể của mình trong Chúa Giê-su.
Một người phụ nữ có danh là Bà Chằng, mọi
người vẫn gọi như thế vì nó hợp với bản tính dữ dằn của bà. Khi bà chết, quỷ
liền lôi ngay bà đi, vì nó cho rằng bà này sống ích kỷ và rất khó nết với mọi
người, chắc chắn sẽ xuống hỏa ngục không cần đợi Chúa xét xử nữa !
Thiên thần bản mạnh của bà giằng co với quỷ
và kêu nài với Chúa :
- Xin Chúa xét xử cho bà này
theo lòng thương xót của Ngài. Không thể để quỷ lôi bà đi ngay được!
- Con hãy mở sổ Nhật Ký xem bà
có làm một điều tốt nào cho ai không? Thiên Chúa nói với thiên thần.
Thiên thần mau mắn lật từng trang Nhật Ký về
đời sống Bà Chằng, lật cả mấy ngàn trang rồi mà chẳng thấy có việc tốt nào cả…
À, may quá, thiên thần reo lên và thưa với Chúa :
- Lạy Chúa, có một lần
bà này đã cho người lối xóm một cọng hành ạ!
- Thế thì con hãy dùng
cọng hành đó mà kéo bà lên! Chúa bảo thiên thần.
Thiên thần mau mắn làm ngay. Bà Chằng bám vào
cọng hành và được thiên thần kéo lên. Thấy vậy nhiều người dưới Hỏa Ngục vội
bám lấy bà mong được “ăn theo”, Bà Chằng vừa giãy đạp, vừa chửi …! Thế là cọng
hành bị đứt, và cả chùm người rơi xuống Hỏa Ngục!!
Hãy nhớ lời Thánh Kinh dạy :
“Đức ái phủ lấp muôn vàn tội lỗi!” (1 Pr 4,8). Vì “ai
có lòng nhân ái thì được thắng án, án xử chỉ tàn nhẫn cho kẻ bất nhân!”
(Gc 2,13).
Nhân ngày lễ Các Linh Hồn, chúng
ta ôn lại giáo lý về thế giới mai sau : Thiên Đàng, Hỏa Ngục, Luyện Tội và Ngục
Tổ Tông.
NỀN TẢNG GIÁO THUYẾT VỀ ĐỜI SỐNG MAI SAU
1/ Luyện Ngục.
Trong mạc khải không nói rõ có
luyện ngục, nhưng qua hai Công Đồng Florence số 1439 và Công Đồng Vat.II trong
Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân số 49 dạy : “Trong
các môn đệ của Chúa có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có
những kẻ hoàn tất cuộc sống và đang tinh
luyện (luyện ngục), và có những kẻ được hiển vinh đang hưởng hạnh phúc cùng
Thiên Chúa”.
Hội Thánh định tín như trên là dựa
vào mạc khải :
-
2
Mcb 12,43 : Phải cầu nguyện cho những người quá cố : Như vậy người qua đời đã
đi vào thế giới khác.
-
Mt
12,32 : Tội phạm đến Thánh Thần đời này hay đời sau cũng không được tha : Đời sau không được tha hoặc là ở hỏa
ngục, hoặc còn đang thanh luyện.
-
Mt
5,25-26 : Các ngươi không thể ra khỏi nơi đó bao lâu chưa trả nốt đồng xu cuối cùng : Đồng xu cuối cùng là tội nhẹ, cũng
phải đền trong thế giới mau sau.
-
1Cr
3,13-15 : Công việc của mọi người sẽ
được tỏ lộ ra, được mạc khải trong lửa
cháy : Như vậy công việc của mọi người còn được thanh luyện sau khi chết.
-
Kh
21, 25-27 : Cổng thành Giê-ru-sa-lem trên trời không bao giờ đóng cả ngày đêm,
nhưng không một người phàm tục nào lẻn vào được. Như vậy, chỉ có những ai đã
được thanh luyện tinh tuyền mới được
vào Thiên Đàng.
2/ Ngục Tổ Tông:
Tiếng Do Thái là Shéol, có nghĩa
là nơi ở của các vong linh (x Ds 16,23). Kinh Thánh đề cập nhiều đến Âm Phủ :
-
Cv
2,31 : Đức Ki-tô không bị bỏ rơi trong Âm Phủ, và thân xác Ngài không thấy cảnh
hư nát.
-
1Pr
3,19 : Đức Giê-su Ki-tô đã đi rao giảng cho các thần linh trong Âm Phủ.
Vậy Âm Phủ là gì ? Ta biết rằng
Luật được ban qua Mô-sê, nhưng ơn nghĩa và sự thật thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà
có (Ga 1,17). Mà giá trị Cựu Ước chỉ là quản giáo dẫn ta đến gặp Đức Giê-su,
mới được ơn giải phóng thoát án phạt của Luật (Gl 3,24). Luật được coi như một
tấm gương soi linh hồn (Gc 1,23), để nhờ Luật ta nhận biết mình có tội (Rm 3,20
; 7,7). Hậu quả của tội là sự chết, còn ân huệ của Thiên Chúa là sự sống đời
đời trong Đức Giê-su Ki-tô (Rm 6,23). Chỉ có ân sủng, lòng thương xót của Chúa
Giê-su khi ta được nhờ, với, trong Ngài, ta mới trở nên công chính và được cứu
độ.
Mặt khác, Cựu Ước chỉ là hình bóng
của Tân Ước. Thế nên nếu Ngôi Hai không giáng trần, thì Cựu Ước chỉ là chuyện
lừa bịp, là thần thoại. Nhưng nhờ Ngôi Hai làm người đã làm ứng nghiệm những điều
được viết trong Cựu Ước, trải qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, Ngài mới đưa
những ai tin theo Ngài vào chế độ ân sủng.
Vậy nói Chúa Giê-su sau khi chết
Ngài xuống Âm Phủ, có nghĩa là Ngài cứu những người công chính sống dưới chế độ Lề Luật Cựu Ước, để đưa họ vào chế độ
ân sủng. Nói cách khác, những kẻ chỉ bám víu vào Luật Cựu Ước, là những kẻ
ở trong Âm Phủ, họ phải được ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giê-su dẫn lối vào
chốn trường sinh.
3/ Hỏa Ngục :
Nhiều người lầm tưởng rằng Thiên
Chúa là tình yêu, nên không có Hỏa Ngục để hành hạ con người, nếu có nói đến
Hỏa Ngục, đó chỉ là cách dọa nạt cho người ta sợ đừng phạm tội thôi. Nhưng Chúa
Giê-su nói rõ về Hỏa Ngục :
-
Mt
24,49-51 : Kẻ nào chỉ lo ăn uống say sưa và tra tay đánh đập đồng loại, nó sẽ
bị khai trừ, và bị đồng hóa với lũ giả hình, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến
răng.
-
Mt
25,1-13 : Những cô trinh nữ khờ dại không được vào dự tiệc cưới.
-
Mt
25, 44-46a : Kẻ nào không thương giúp đồng loại, để hướng lòng họ về với Chúa,
thì sẽ phải vào chốn cực hình đời đời.
Những hình ảnh Hỏa Ngục trên đây,
chỉ là cách nói bình dân cho người ta dễ hiểu về hình khổ đời sau. Thực ra Chúa
không làm ra Hỏa Ngục để phạt ai. Nhưng có Hỏa Ngục là do người ta ngoan cố
không làm theo ý Chúa, mà lấy ý mình làm hơn. Trong Thánh Kinh, có nhiều cách
diễn tả con người phải khổ vì không chọn Chúa :
-
Ga
15 : Chúa là cây nho, ta là ngành, ngành nho nào tách lìa khỏi thân thì tự khô
héo. Như vậy dù thân cây có tiết ra nhựa để nuôi cành,thì cành vẫn chết!
-
Mt
12,43-45 : Kẻ đã thuộc về Chúa, lại tạo
điều kiện cho bảy quỷ dữ đến, thì tình trạng người đó lại tệ hơn trước.
-
Mt
7,26 : Người không xây dựng đời mình trên giáo lý của Hội Thánh, thì tai họa ập
đến, giống như người ngu xây nhà trên cát, không đúng kỹ thuật, khi mưa giông
bão tố xảy đến, nhà đó bị sập, thì không thể đổ lỗi cho ai, mà phải tự nhận lấy
hậu quả do mình không làm đúng kỹ thuật.
-
Kh
19,7-8 : Nước Trời như tiệc cưới, ai mặc áo trúc bâu, là mặc lấy Chúa Ki-tô,
mặc lấy công đức của các thánh, thì họ như cô dâu được đưa vào tiệc cưới. Vậy
ai không có Chúa Ki-tô,không có công đức, thì như cô dâu khỏa thân, chàng rể có
muốn đưa cô vào, thì cô cũng phải tìm cách chạy trốn. Như thế, Hỏa Ngục còn là
nơi Chúa thưởng kẻ “trần truồng” vì không “mặc” lấy Ngài.
-
Dnl
30,15-20 : Chúa đặt trước mắt mỗi người sự sống và sự chết, ai chọn gì thì lãnh
cái đó.
LỄ II
ƠN CỨU ĐỘ DO LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Con người, ai cũng mong sống trường sinh bất tử,
nên ai cũng sợ thần chết đến gõ cửa nhà làm thất kinh bát đảo! Chỉ có những ai
tin vào Chúa mà tham dự tiệc của Ngài đã dọn sẵn trên núi, mới thoát tay tử
thần, như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo : “Ngày
ấy, trên núi này,ĐỨC CHÚA các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc : Trên núi
này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ
mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử
thần. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và
trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. ĐỨC CHÚA phán
như vậy. Ngày ấy, người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta
từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ.Chính Người là ĐỨC CHÚA
chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ.”
(Is 25, 6a.7-9 : Bài đọc I).
Bữa tiệc này chính là tiệc Thánh
Thể mà Chúa Giê-su đã dọn sẵn cho muôn dân trên núi Sọ trong ngày Thứ Sáu Tuần
Thánh, và Ngài truyền cho Hội Thánh làm hiện tại hóa Hy Tế này cho đến ngày
cánh chung. Ai đến tham dự thì được đồng hóa với Con Một Thiên Chúa : cùng một
xương thịt,cùng một sự sống (x Dt 2,11 ; Ga 6,57), nên được mở miệng như trẻ sơ
sinh còn nằm trên nôi thưa với Thiên Chúa là “Abba” (lạy Cha), mà đã là con thì
cũng được thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô, một khi cùng chịu đau khổ
với Người, thì chúng ta cùng được hưởng vinh quang với Người, để ta làm cho
các tạo vật cũng được tham dự vào vinh
quang Thiên Chúa (x
Rm 8,14-23 : Bài đọc II).
Sự tốt đẹp Chúa ban cho chúng ta
hơn lòng mong ước, đến nỗi dù suốt cả đời ta làm nô lệ cho satan như tên trộm
bị đóng đinh bên Đức Giê-su (lúc Ngài dâng lễ), anh đã biết sám hối, xin Ngài
thương xót, tức khắc Ngài tuyên bố : “Hôm
nay anh ở trên Thiên Đàng với Ta” (x Lc 23,33.39-43 : Tin Mừng).
Vậy “lạy Chúa, chẳng ai trông cậy Chúa mà lại phải nhục nhằn tủi hổ” (Tv
25/24,3a : Đáp ca).
Ta biết hiệu quả của Thánh Lễ là
được Chúa ban ơn cho hết mọi loại người, người sống cũng như người đã qua đời.
Thậm chí người cô thế cô thân, hoặc quả phụ, mồ côi, nghèo khó, lại được Chúa
ưu đãi hơn : “Đấng xử công minh cho kẻ mồ
côi quả phụ, cho nó cơm ăn áo mặc” (Dnl 10,18). Đó là lý do Chúa đòi chúng
ta phải ưu tiên cho quả phụ, mồ côi. Ai xúc phạm đến họ, Ngài thẳng tay trị tội
(x Xh 22, 20-23 ; Dnl 14,28-29 ; Dnl 24,17-22).
Chính vì vậy Thánh Lễ nào Hội
Thánh cũng cầu nguyện cho hết thảy mọi người, cả những người chúng ta không
biết lòng tin của họ (Kinh Nguyện Thánh Thể thứ 4). Do đó không có linh hồn nào
mồ côi! Rất tiếc nhiều người đưa tiền xin Lễ cho các linh hồn mồ côi, vì nghĩ lầm
rằng không có ai cầu nguyện cho, thì họ không có ơn!
Vậy tốt nhất ta hãy xin Lễ ưu tiên
cho những người còn sống biết thực hành Lời Chúa, và xin Lễ cầu nguyện cho
những người mà ta đã gây cớ vấp phạm cho họ, hoặc ta đã mang ơn họ mà không có
cách nào đáp đền. Sau cùng ta mới xin chỉ cho những người đã qua đời. Có cầu
nguyện cho mọi người như thế,ta mới hiệp thông với toàn thể Hội Thánh sống tín
điều Các Thánh Cùng Thông Công, thì chẳng những người mà ta cầu nguyện cho họ
được ơn, mà cả ta cũng được Hội Thánh (các thánh trên trời, các linh hồn nơi
luyện tội, những người sống Đức Ái) cầu nguyện cho. Đó là cách sống Đức Ái
tuyệt vời nhất.
Có một cô Giáo lý
viên (glv) kia xin Chúa cho được tham quan đời sống hạnh phúc trên Thiên Đàng
và những đau khổ dưới Hỏa Ngục, để có kinh nghiệm cụ thể trong việc dạy giáo lý
giúp người học tránh tội tích cực hơn ! Và Chúa đã cho Glv ấy được toại nguyện,
Ngài nói : “Con xuống Hỏa Ngục xem trước,
rồi mới lên Thiên Đàng” . Cô Glv vừa mừng vừa sợ, vì nếu xuống Hỏa Ngục lửa
cháy phừng phực, quỷ dữ đông vô số, lại còn rắn rít, bò cạp … lỡ không khéo là
đi đứt ! Nên cô xin được bám chặt vào
tay thiên thần dẫn đi.
Khi bước xuống Hỏa
Ngục, cô ngạc nhiên khi thấy Hỏa Ngục không như nhiều người mô tả, mà lại thấy
nhà cao cửa rộng, gió mát trăng thanh…! Cô được thiên thần dẫn vào nhà ăn :
trước mắt cô là một cái bàn tròn lớn ở giữa nhà đã dọn sẵn nhiều cao lương mỹ
vị, nhưng chỉ có một đôi đũa dài bằng chiều rộng cái bàn. Thình lình một hồi
chuông vang lên, có tiếng nói trong loa phóng thanh : “Chúng mày chỉ có 30 phút ăn thôi, sau đó phải nhanh chân về lại trại
giam”, vừa dứt lời, một đoàn người nối đuôi nhau đang tiến về bàn ăn, ai
nấy ngồi vào chỗ của mình. Glv rất thắc
mắc là tại sao trông người nào cũng ốm nhom ốm nhách!
Vừa ngồi xuống ghế là
mọi người nhao nhao ai cũng giành lấy
đôi đũa gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa quá dài, nên gắp được miếng nào đưa
vào miệng đều rớt xuống đất hết! … Cứ như thế cho đến hết giờ mà chẳng ai ăn được
gì ?!
Glv ấy mới hội ra :
Thảo nào ai cũng ốm o gầy còm !
Sau đó, thiên thần dẫn
cô lên tham quan Thiên Đàng, lên đến nơi, cô vô cùng ngạc nhiên vì cảnh trí ở
đây cũng đâu có khác gì dưới Hỏa Ngục : bàn ăn thịnh soạn, và cũng chỉ có một đôi
đũa dài! Một hồi chuông báo hiệu giờ ăn,
trên loa phóng thanh có tiếng nói : “xin
các ngài nhớ giờ cơm chỉ có 30 phút, sau đó về nhà nghỉ ngơi, để không trễ giờ
kinh chiều, giờ Lễ”. Thế là một đoàn người tiến ra, người nào trông cũng
xinh xắn, hồng hào bước vào bàn ăn và bắt đầu cầm đũa, người này gắp thức ăn
đút cho người đối diện, và cứ luân phiên như thế cho đến hết lượt. Cuối cùng
chưa hết giờ ăn mà trên bàn đã hết sạch mọi món.
Cô Glv đã nhận ra
rằng : Trên Thiên Đàng ai cũng lo cho nhau ; trái lại, dưới Hỏa Ngục, ai cũng
chỉ nghĩ đến mình!
Chính vì vậy mà giữa lúc các Tông
Đồ đang đói, họ chỉ còn có năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa lại bảo họ : “Chúng con cứ cho họ ăn trước đi”, và
cuối cùng ai cũng ăn no và còn dư 12 thúng đầy!
(x Mt 14, 13-21).
LỄ III
CHẾT ĐƯỢC SỐNG LẠI NHỜ CHÚA GIÊSU
Chỉ có Ki-tô giáo mới đáp ứng khát
vọng thâm sâu của con người là ai cũng mong được hồn xác trường sinh bất tử.
Nghĩa là dù có chết cũng hy vọng xác hồn được sống lại để hưởng phúc vinh muôn
đời. Chỉ có Chúa Giêsu khẳng định cho chúng ta ơn này : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã
chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết"
(Ga 11,25-26 : Tin Mừng).
Như thế Chúa Giê-su đã nói rõ : Sự sống thật chỉ có sau khi được sống lại.
Để minh chứng chỉ có Chúa Giê-su mới có quyền phục sinh kẻ chết, nên trong đời
của Ngài đã ba lần trong ba trường hợp, Ngài cho ba kẻ chết sống lại :
-
Con
gái ông Giai-rô vừa mới chết (x Mc 5,35t).
-
Con
trai bà góa thành Na-im chết được một ngày, người ta đang khiêng đi chôn
(x Lc 7,11t).
-
La-da-rô,
em của Matta, Maria đã chết an táng được bốn ngày (x Ga 11).
Nhưng những người trên đây mới nêu
dấu chỉ sự Phục Sinh trong ngày cánh chung, bởi vì họ vẫn còn phải chết. Trừ có
Chúa Giê-su, tự quyền Ngài sống lại và thân xác Ngài được thần hóa, được tôn
vinh muôn đời. Vì Ngài đã đánh gục thần chết !
Vậy “linh hồn con khao khát Chúa Trời là Chúa Trời hằng sống” (Tv
42/41,3a : Đáp ca).
Do đó xác hồn chúng ta chỉ được
sống lại vinh hiển giống Chúa Giê-su vào ngày cánh chung (x 1Ga 3,2). Còn bây
giờ chúng ta đang sống trong niềm hy vọng, “hy
vọng mà thấy được ai còn hy vọng nữa, nhưng nếu ta hy vọng điều ta không thấy,
thì ta cứ kiên vững đợi trông” (Rm 8,24).
Niềm hy vọng trong thời cánh
chung, Chúa đã cho ông Gioan nhìn thấy thị kiến : “Một trời mới đất mới, trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển (sào huyệt
quỷ thần) cũng không còn nữa, ta như một tân nương trang điểm để đón Tân Lang
Giêsu vào thành thánh Giê-ru-sa-lem mới trên trời. Đây là nhà tạm của Thiên
Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn
chính Người là Thiên Chúa ở cùng họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ
không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những
điều cũ đã biến mất. Thiên Chúa sẽ ban cho ai khác được uống nơi nguồn nước
trường sinh mà không phải trả tiền, vì người ấy là con Thiên Chúa” (Kh
21,1-5a.6b-7 : Bài đọc II).
Ngày cánh chung Chúa hoàn tất cuộc
tạo dựng con người từ bụi đất trở thành “kẻ bé nhỏ” trong Nước Thiên Chúa.
Trong gia đình ai nhỏ nhất thì được cả nhà chăm sóc, nhỏ mà trở nên như vua
trong nhà :
Trong một giấc mơ, tôi thấy cảnh một đoàn người đông vô số kể, thuộc đủ mọi
thành phần trong xã hội. Ai cũng chen nhau đến trình diện Chúa, để được vào Thiên
Đàng trước!
Một vị mặc áo vua, đội mũ cà - cuống, cầm gậy vàng tiến đến trước mặt Chúa,
Chúa hỏi :
- Ngươi là ai ?
- Thưa con là Tổng Giám mục ạ!
- Tổng Giám mục à? Đứng qua bên đợi
đã.
Một vị khác tiến đến, mặc áo dòng, tay cầm cuốn Thánh Kinh, Chúa hỏi ngay :
-
Ngươi là ai?
-
Dạ, con là cha sở ạ!
-
Cha sở à? Cũng đứng qua
bên hậu xét.
…………………………………………
Rồi thêm bao nhiêu bậc vị vọng tiến đến trình diện Chúa, cũng đều đứng lại
chờ … Đến lượt một cụ già chống gậy bước tới. Chúa hỏi :
-
Ngươi là ai?
-
Bẩm Chúa, con là “con
nít” ạ!
-
Con nít à ? Vô lẹ đi
con!
Vậy “ai không hoán cải trở nên giống trẻ nhỏ, thì
sẽ chẳng được vào Nước Trời !” (Mt 18,3).
Niềm tin Phục
Sinh đã khởi sự trong Do Thái giáo từ năm 166 – 160 trước công nguyên : khi
những chiến sĩ Do Thái tử trận vì đeo bùa, thì ông Giu-đa Ma-ca-bê quyên góp
được khoảng hai ngàn quan tiền và gởi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng lễ tạ tội ;
ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này, vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu không hy vọng rằng
những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là
việc dư thừa và ngu xuẩn (x 2 Mcb 12,40-44 : Bài đọc I).
Bởi đó Giáo Luật số 946 nói về ý
nghĩa bổng lễ người ta xin : “Các tín hữu đóng góp vào thiện ích của Giáo
Hội bằng việc dâng cúng ấy, họ góp phần nâng đỡ các thừa tác viên và các hoạt
động của Hội Thánh”.
Vì “không ai ra trước nhan Chúa với bàn tay không” (Hc 35,4), nhưng khi
dâng cúng phải nhớ lời thánh Phao-lô dạy : “Gieo
ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều.Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định
của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến,
thì Thiên Chúa mới chuộng” (2 Cr 9,6-7).
Khi ta xin Lễ, hãy bỏ thói độc
quyền, tức là không muốn chủ tế cầu nguyện cho ai khác, như thế là đã tự bắt
Thiên Chúa chỉ chú ý đến mình, trái với Kinh Lạy Cha, Ngài dạy chúng ta cầu
nguyện “xin cho chúng con”. Bởi vì
Thiên Chúa là Cha chung mọi người, nơi Ngài sung mãn mọi ơn, và Ngài ban phát
cho con người không bao giờ vơi cạn. Thế nên nếu xin Lễ mà ta còn tính ích kỷ,
làm sao Chúa quảng đại đối với ta!?
Ông Gióp khi quá đau khổ, ông chỉ
than thân trách phận, Chúa vẫn chưa ban ơn, nhưng về sau ông đổi ý cầu nguyện
cho hết thảy mọi người đang đau khổ, lúc đó Chúa mới ban cho ông giàu có gấp
đôi và Chúa lại cho sinh đủ số con như trước là bảy trai ba gái, chúng còn khôn
ngoan, khỏe mạnh hơn trước (x Gióp 42,10t).