Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Nghe Nhạc Thánh Ca trên điện thoại android
Bài viết
Công giáo và Thế giới

CÔNG GIÁO VÀ THẾ GIỚI
 
PHI LỘ  – Đây là một tài liệu có nhiều điều bí ẩn hoặc“khuất tất” chưa được làm sáng tỏ. Đọc rồi bạn không chỉ được mở rộng kiến thứcmà còn thấy Công giáo thật tuyệt vời, không như người ta xuyên tạc hoặc cố ý“bóp méo” – chẳng hạn chuyện Lm Alexandre de Rhode (1591-1660) dùng mẫu tựLatin ghép thành Việt ngữ. Công lao của Công giáo rất nhiều nhưng bị người ta“cố ý lãng quên”, và có thể người ta muốn dành lấy công lao đó cho mình chăng?Bạn hãy đọc để yêu mến GIÁO HỘI của ĐỨC KITÔ nhiều hơn. Thật hạnh phúc được làngười Công giáo! Xin mời bạn tìm hiểu…
 
GIỚI THIỆU
 
Tại một cuộc tranh luậnmới đây, được BBC phát hình khắp thế giới, hơn 87% khán thính giả phản đối quanniệm cho rằng Giáo hội Công giáo là sức mạnh về sự thiện trên thế giới. Mặc dùnhững người phản đối Giáo Hội bị chất vấn bởi hai bậc thầy về tu từ học, có mộtchút nghi ngờ rằng việc bỏ phiếu kia phản ánh sự biến chuyển về thái độ đối vớiKitô giáo nói chung và đức tin Công giáo nói riêng. Mới đây chúng ta đã đượccoi là tử tế và ngây ngô, ngày nay chúng ta lại càng bị coi là ác độc. Cuốicùng, việc dạy đức tin và bảo vệ đạo đức Kitô giáo càng trở nên khó khăn hơnnhiều.
 
Để diễn tả thử thách nàytừ căn bản, thiết tưởng chúng ta cần phải tự nhắc nhở mình về mức độ mà đức tinCông giáo là sức mạnh về sự thiện trên thế giới. Chúa Giêsu nói: “Cứ nhìn quảthì biết cây” (Mt 12:33), và ngay cả một số người ngoài Giáo Hội cũng đánh giácao hiệu quả của Giáo Hội. Chẳng hạn, năm 2007, thương gia vô thần RobertWilson đã trao 22,5 triệu USD (13,5 triệu Bảng) cho tổ chức giáo dục Công giáoở New York,và nói rằng: “Nếu không có Giáo hội Công giáo Rôma thì sẽ không có văn minh Tâyphương”.
 
Vậy Giáo Hội trao gởi điều gì cho thế giới?
 
1. ÁNH SÁNG và VŨ TRỤ
 
 
Tổ chức Opus Maius (năm1267, tiếng Latin nghĩa là “Công việc vĩ đại”) của Tu sĩ Roger Bacon (mất năm1292), Dòng Phanxicô, đã viết theo yêu cầu của ĐGH Clement IV, đa số nhờ truyềnthống quang học trong thế giới Latin. Cặp kính đầu tiên được phát minh tại Ývào khoảng năm 1300, cách dùng thấu kính sau đó được phát triển thành kính viễnvọng và kính hiển vi.
 
Nhiều người nghĩ rằngGalileo (mất năm 1642) bị đối xử tệ, họ muốn quên trường hợp riêng của các sựkiện này, hoặc sự thật là ông đã chết và con gái của ông trở thành nữ tu. LịchGregorian (1582), nay được dùng toàn thế giới, là kết quả của công việc của cácnhà thiên văn Công giáo, là cách phát triển của phép chụp hình thiên văn(astrophysics) bằng quang phổ của Lm Angelo Secchi (mất năm 1878).
 
Đáng lưu ý nhất là BigBang, lý thuyết quan trọng nhất về vũ trụ học hiện đại, là phát minh của linhmục Công giáo tên Georges Lemaître (mất năm 1966), một sự kiện lịch sử mà đàiBBC chưa nhắc tới hoặc chưa được công bố trên các sách khoa học. Như vậy có bấtcông không?
 
2. ĐỊA CẦU và THIÊN NHIÊN
 
Nền Văn minh Công giáo đãgóp phần đáng kể vào việc nghiên cứu khoa học và vẽ bản đồ địa cầu, sản sinhnhững nhà thám hiểm vĩ đại như Marco Polo (mất năm 1324), Hoàng tử Henry Hoatiêu (mất năm 1460), Bartolomeu Dias (mất năm 1500), Christopher Columbus (mấtnăm 1506) và Ferdinand Magellan (mất năm 1521). Ngày xưa người ta bảo thế giớinày bằng phẳng (truyền thuyết đen được tạo ra hồi thế kỷ XIX), thế giới Cônggiáo đã làm ra bản đồ khoa học hiện đại đầu tiên: Diogo Ribeiro’s Padrón Real(1527). Lm Nicolas Steno (mất năm 1686) là người sáng lập địa tầng học(stratigraphy), là cách giải thích về các lớp đá là một trong các nguyên tắccủa khoa địa chất (geology).
 
Jean-Baptiste Lamarck (mấtnăm 1829), một người Công giáo Pháp, đã phát triển lý thuyết đầu tiên về sựtiến hóa, kể cả khái niệm về sự biến đổi của các loài và phả hệ (genealogicaltree). Tu sĩ Gregor Mendel (mất năm 1884), Dòng Augustinô, đã phát minh ngànhdi truyền học (genetics) dựa trên việc nghiên cứu tỉ mỉ các đặc tính di truyềncủa khoảng 29.000 cây đậu.
 
3. TRIẾT HỌC và THẦN HỌC
 
Công giáo coi triết học là tốt tự bản chất và chịu trách nhiệm trong việc hình thành thần học, dùng lý lẽ để giải thích điều được phát hiện về phương diện siêu nhiên. Các triết gia Cônggiáo lừng danh phải kể tới Thánh Augustinô (mất năm 430), Thánh Thomas Aquinas(mất năm 1274), Thánh Anselmô (mất năm 1109), Chân phước Duns Scotus (mất năm1308), Chân phước Suárez (mất năm 1617), và Chân phước Blaise Pascal (mất năm1662). Các triết gia gần đây là Thánh Edith Stein (mất năm 1942), ThánhElizabeth Anscombe (mất năm 2001), và Thánh Alasdair MacIntyre. Về căn bản,Thiên Chúa là Chúa của lý lẽ và tình yêu, người Công giáo bảo vệ tính tối giảm(irreducibility, không thể giảm bớt) của con người đối với vấn đề này, quy luậtnày tạo ra sinh linh có thể là nguyên nhân chính xác của hành động, ý chí tựdo, vai trò của nhân đức trong sự hạnh phúc, điều tốt và xấu, luật tự nhiên vàluật phi mâu thuẫn. Các quy luật này có tầm ảnh hưởng khôn lường về cuộc sốngvà văn hóa.
 
4. GIÁO DỤC và HỆ THỐNG ĐẠI HỌC
 
Có thể sự đóng góp cho giáo dục để nổi bật lên từ nền Văn minh công giáo là sự phát triển hệ thống đạihọc. Các trường ĐH Công giáo đầu tiên gồm Bologna (1088), Paris (khoảng 1150),Oxford (1167), Salerno (1173), Vicenza (1204), Cambridge (1209), Salamanca(1218-1219), Padua (1222), Naples (1224), và Vercelli (1228). Giữa thế kỷ XV(hơn 70 năm trước cuộc Cải Cách), đã có hơn 50 trường đại học ở Âu châu.
 
Nhiều trường đại học này (như ĐH Oxford)vẫn cho thấy các dấu hiệu thành lập của Công giáo – như những hình tứ giác theokiểu các tu viện, lối kiến trúc Gothic và nhiều nhà nguyện. Khởi đầu từ thế kỷVI, Công giáo Âu châu cũng phát triển những thứ mà sau đó được gọi là grammarschools (trường trung học), hồi thế kỷ XV, sản sinh dạng in ấn di động, rất íchlợi cho ngành giáo dục. Ngày nay, ước tính các trường Công giáo có đến hơn 50triệu sinh viên học sinh trên khắp thế giới.
 
5. NGHỆ THUẬT và KIẾN TRÚC
 
Tin Ngôi Hai Nhập Thể, Ngôi Lời mặc xác phàm và Thánh Lễ có các quy luật nền tảng trong việc đóng góp ngoại hạng của Công giáo đối với nghệ thuật và kiến trúc. Đó là: các đại giáođường La Mã cổ đại, tác phẩm của Giotto (mất năm 1337), người khai sinh trườngphái thực tế trong hội họa khi vẽ 14 Chặng Đàng Thánh Giá kiểu Dòng Phanxicô, giúpgợi hứng nghệ thuật ba chiều (3D) và kịch nghệ, phát minh cách phối cảnh đườngnét một điểm của Brunelleschi (mất năm 1446), và kiệt tác của thời kỳ ThượngPhục Hưng (High Renaissance, thập niên 1490, với bích họa “Bữa Tiệc Ly” củadanh họa Leonardo da Vinci). Còn có tác phẩm của Chân phước Fra Angelico (mấtnăm 1455), thánh bổn mạng nghệ thuật, các tác phẩm của các danh họa Leonardo daVinci (mất năm 1519), Raphael (mất năm 1520), Caravaggio (mất năm 1610,pictured), Michelangelo (mất năm 1564) và Bernini (mất năm 1680). Nhiều tácphẩm của các họa sĩ này, như tác phẩm trên trần Nguyện Đường Sistine, được coilà một trong các kiệt tác nghệ thuật của mọi thời đại. Nền Văn minh Công giáocũng tành lập các loại, như lối kiến trúc Byzantine, Romanesque, Gothic, HighRenaissance và Baroque. Tượng Cristo Redentor ở Brazilvà Đại giáo đường Sagrada Familia ở Barcelonachứng tỏ Đức Tin vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng cho cả nghệ thuật và kiến trúc.
 
6. LUẬT PHÁP và LUẬT HỌC
 
Việc cải cách của ĐGH Gregory VII (mất năm 1085) đã thúc đẩy việc hình thành Luật Giáo Hội và cácquốc gia Âu châu. Sau đó là việc áp dụng triết học vào luật pháp, cùng với cáckiệt tác của các tu sĩ như Gratian hồi thế kỷ XII, sản sinh các cơ quan phápluật hoàn chỉnh đầu tiên, được coi là ảnh hưởng lẫn nhau để hình thành một tổngthể. Cuộc cách mạng này cũng dẫn tới việc thành lập các trường luật, khởi đầu ởBologna (1088), từ đó sinh ra nghề luật, và các khái niệm như “tính cách đoànthể” (corporate personality), nền tảng luật của nhiều cơ quan ngày nay nhưtrường đại học, công ty và quỹ tín dụng. Các nguyên tác luật như “niềm tintốt”, sự nhượng quyền, sự bình đẳng trước pháp luật, luật quốc tế, tòa án xétxử, luật đình quyền giam giữ (habeas corpus), và trách nhiệm chứng minh sự phạmtội ngoài việc khả nghi cũng là hệ quả của nền Văn minh và Luật học của Cônggiáo.
 
7. NGÔN NGỮ
 
 
Trung tâm của tiếng Hy Lạp và Latin đối với Công giáo đã làm thuận tiện cho việc đọc và viết, vì các mẫu tự rất dễ học hơn so với các biểu tượng ngôn ngữ, không khó như Trung ngữ (tiếng Trung quốc). Nhờ Công giáo phổ biến, các mẫu tự Latin được dùng nhiềunhất trong hệ thống viết trên thế giới. Thế nên có thể gọi La ngữ là mẫu ngữ.Công giáo cũng phát triển các mẫu tự Armenia, Georgia,Cyrillic và chữ viết tiêu chuẩn – như tiểu tự Carolingian (chữ viết nhỏ) từ thếkỷ IX tới XII, và tiểu tự Gothic (từ thế kỷ XII).
 
 
Công giáo còn cung cấpkhung văn hóa cho Divina Commedia (hài kịch về Chúa), Cantar de Mio Cid (Cakhúc của Chúa) và La Chanson de Roland (ca khúc của Roland), các tác phẩm bảnxứ rất ảnh hưởng sự phát triển lẫn nhau của Ý, Pháp và Tây Ban Nha. Thánh caCông giáo của Cædmon (thế kỷ VII) là bản Anh ngữ cổ nhất cònlại hiện nay – tìm thấy ở The Moore Bede (khoảng năm 737), còn lưu trữ tại Thưviện của ĐH Cambridge.Valentin Haüy (mất năm 1822), anh em với Viện phụ Haüy (người phát minh tinhthể học – crystallography), đã thành lập trường học đầu tiên dành cho người mù.Học trò nổi tiếng nhất của trường này là Louis Braille (mất năm 1852), ngườiphát triển hệ thống chữ nổi dành cho người mù phổ biến cả thế giới cho tới nay,gọi là chữ Braille.
 
8. ÂM NHẠC
 
Nền Văn minh Công giáo thực sự sáng tạo truyền thống âm nhạc Tây phương, rút ra từ âm nhạc Do Thái trong âm nhạc phụng vụ thời kỳ đầu. Bình ca Grêgôriô phát triển từ thế kỷ VI.Các phương pháp thu âm bình ca dẫn tới việc phát minh âm nhạc có khuông nhạc,rất lợi ích trong việc thu âm, và dụng cụ giúp trí nhớ “ut-re-mi” (do-re-mi)của Guido di Arezzo (mất năm 1003). Từ thế kỷ X, các trường nhà thờ đã pháttriển âm nhạc đa âm (polyphonic music), sau đó mở rộng nhiều tới 40 giọng(Tallis, Spem in Alium) và thậm chí là 60 giọng (Striggio, Missa Sopra Ecco).
 
Loại nhạc có nguồn gốc với Văn minh Công giáo gồm có thánh ca (hymn), ô-ra-tô (oratorio) và ô-pê-ra (opera). Nhà soạn nhạc Haydn (mất năm 1809) là một người Công giáo đạo đức,định hình việc phát triển nhạc giao hưởng (symphony) và bộ tứ nhạc cụ dây (string quartet). Giáo Hội và phụng vụ đã định hình nhiều tác phẩm của các nhà soạn nhạc lừng danh như Monteverdi (mất năm 1643), Vivaldi (mất năm 1741),Mozart (mất năm 1791, pictured) và Beethoven (mất năm 1827). Bản Symphony No 8 (Giao hưởng số 8) của nhà soạn nhạc Mahler (mất năm 1911) được coi như nhạc đềcủa thánh ca Lễ Ngũ Tuần (Pentecost), đó là bài “Veni creator spiritus” (LạyChúa Thánh Thần, xin ngự đến).
 
9. THÂN PHẬN PHỤ NỮ
 
Trái ngược với thành kiến chung, các phụ nữ ngoại hạng và có uy tín đã từng là một trong các tiêu chuẩn của nền văn minh Công giáo. Đức tin đã tôn vinh nhiều thánh nữ, kể cả các ThánhTiến sĩ Giáo Hội mới đây, và nuôi dưỡng nhiều Nữ tu như Thánh Hilda (mất năm680) và Chân phước Hildegard von Bingen (mất năm 1179), Mẹ bề trên và học giả.Các phụ nữ Công giáo tiên phong về chính trị phải kể tới Thánh Empress Matilda (mất năm 1167), Eleanor ở Aquitaine (mất năm 1204) và Nữ hoàng Anh quốc Mary Tudor (mất năm 1558).
 
Nền văn minh Công giáocũng sản sinh nhiều nữ khoa học gia và giáo sư đầu tiên: Trotula ở Salerno hồithế kỷ XI, Dorotea Bucca (mất năm 1436), trưởng khoa y dược tại ĐH Bologna, Elena Lucrezia Piscopia (mất năm 1684), phụ nữ đầu tiên nhận bằng Tiến sĩ Triết học (1678), và Maria Agnesi (mất năm 1799), phụ nữ đầu tiên là giáo sư toán học, được ĐGH Bênêđictô XIV bổ nhiệm hồi đầu năm 1750.
 
Trầm Thiên Thu  4/21/2013
(Tổng hợp và chuyển ngữ)

Lên đầu trang
Các bài khác cùng chủ đề: