Kinh Thánh
Thời kỳ
Sách
Chương
 
      Lm. Trịnh Ngọc Danh
Nghe Nhạc Thánh Ca trên điện thoại android
Bài giảng
CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM A: BA LẦN ĐỨC GIÊSU LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN
Âm thanh
Video
[ Bấm play 2 lần liên tiếp để xem video. Vui lòng chờ chút nếu kết nối mạng chậm ]
BÀI ĐỌC 1 VÀ 2 (NẾU CÓ)
BÀI ĐỌC I: Is 50,4-7
4 Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.5 Đức Chúalà Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. 6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh  đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. 7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
ĐÁP CA : Tv 21
          Đ. 2      Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa,
                      Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao ?
7 Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, 8 thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: 9 "Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào! "
17 Cả bầy chó trong ngoài vậy bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, 18 xương con đếm được vắn dài ;  chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
19 Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. 20 Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.
23 Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.
24 Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ít-ra-en tất cả, nào một dạ khiếp oai!
BÀI ĐỌC II: Pl 2,6-11
6 Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, 7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. 8 Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. 9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. 10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; 11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa".
 
BÀI TIN MỪNG
TUNG HÔ TIN MỪNG: Pl 2,8-9
Vì chúng ta, Đức Ki-tô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
TIN MỪNG: đọc Mt 26,14-27,66 (hay Mt 27,11-54)

BÀI THƯƠNG KHÓ:  Mt 26, 14 - 27, 66  (bài dài)
"Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:
S.    "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?"
C.    Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày   thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:
S.    "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?"
C.    Chúa Giêsu đáp: 
LM:"Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông".
C.    Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: 
LM:
"Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy".
C.    Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:
S.    "Thưa Thầy, có phải con không?"
C.    Người trả lời rằng:  
LM:
"Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!"
C.    Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:
S.    "Thưa Thầy, có phải con chăng?"
C.    Chúa đáp: 
LM:
"Đúng như con nói".
C.    Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: 
LM:"Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta".
C.    Đoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán: 
LM:"Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy".
C.    Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông: 
LM:"Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: 'Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác'. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C.    Phêrô liền thưa:
S.    "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm".
C.    Chúa Giêsu đáp: 
LM:
"Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần".
C.    Phêrô lại thưa:
S.    "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy".
C.    Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.
Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ: 
LM:
"Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện".
C.    Đoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông: 

LM:
"Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy".
C.    Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói: 

LM:
"Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn".
C.    Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:

LM:
"Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối".
C.    Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng: 

LM:
"Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha".
C.    Đoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:

LM:
"Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần".
C.    Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:
S.    "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy".
C.    Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:
S.    "Chào Thầy".
C.    Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo: 
LM:
"Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?"
C.    Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo: 

LM:
"Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?"
C.    Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng: 

LM:
"Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép".
C.    Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.
Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:
S.    "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày".
C.    Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:
S.    "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?"
C.    Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:
S.    "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không?"
C.    Chúa Giêsu trả lời: 

LM:
"Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây".
C.    Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:
S.    "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Đây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?"
C.    Họ đáp lại:
S.    "Nó đáng chết!"
C.    Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:
S.    "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?"
C.    Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:
S.    "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa".
C.    Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:
S.    "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?"
C.    Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:
S.    "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét".
C.    Ông thề mà chối rằng:
S.    "Tôi không biết người ấy".
C.    Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:
S.    "Đúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi".
C.    Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:
S.    "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính".
C.    Nhưng họ trả lời:
S.    "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!"
C.    Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:
S.    "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu".
C.    Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Đấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi".
Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:
S.    "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C.    Chúa Giêsu đáp: 
LM:
"Ông nói đúng!"
C.    Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S.    "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"
C.    Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.
Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S.    "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C.    Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S.    "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".
C.    Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S.    "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?"
C.    Họ thưa:
S.    "Baraba!"
C.    Philatô hỏi:
S.    "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"
C.    Họ đồng thanh đáp:
S.    "Đóng đinh nó đi!"
C.    Quan lại hỏi:
S.    "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"
C.    Chúng càng la to:
S.    "Đóng đinh nó đi!"
C.    Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S.    "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi".
C.    Toàn dân đáp:
S.    "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi".
C.    Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.
Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S.    "Tâu vua dân Do-thái!"
C.    Đoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.
Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.
Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S.    "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là ConThiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"
C.    Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờhãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thươngnó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C.    Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: 
LM:"Eli, Eli, lema sabachtani!"
C.    Nghĩa là:

LM:
"Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C.    Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S.    "Nó gọi tiên tri Elia".
C.    Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S.    "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"
C.    Đoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S.    "Đúng người này là Con Thiên Chúa".
C.    Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê.
Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.
Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:
S.    "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: 'Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại'.Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồnvới dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơntrước".
C.    Philatô trả lời:
S.    "Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý".
C.    Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.   Đó là lời Chúa.
_________________________
Hoặc đọc bài vắn này: Mt 27, 11-54
C.    Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn †Phongxiô Phi-latô, và quan hỏi Người rằng:
S.    "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
C.    Chúa Giêsu đáp:
LM:
"Ông nói đúng!"
C.    Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S.    "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"
C.    Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.
Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S.    "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"
C.    Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S.    "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy,vì hôm nay trong một giấc chiêm bao,tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".
C.    Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S.    "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?"
C.    Họ thưa:
S.    "Baraba!"
C.    Philatô hỏi:
S.    "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"
C.    Họ đồng thanh đáp:
S.    "Đóng đinh nó đi!"
C.    Quan lại hỏi:
S.    "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"
C.    Chúng càng la to:
S.    "Đóng đinh nó đi!"
C.    Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S.    "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi".
C.    Toàn dân đáp:
S.    "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi".
C.    Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.
Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S.    "Tâu vua dân Do-thái!"
C.    Đoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.
Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: "Người này là Giêsu, vua dân Do-thái". Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.
Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S.    "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là ConThiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"
C.    Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S.    "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"
C.    Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: 

LM:
"Eli, Eli, lamma sabachtani!"
C.    Nghĩa là: 

LM:
"Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"
C.    Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S.    "Nó gọi tiên tri Elia".
C.    Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S.    "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"
C.    Đoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S.    "Đúng người này là Con Thiên Chúa". 

BÀI GIẢNG
BA LẦN ĐỨC GIÊSU LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN
 
A.THEO TIN MỪNG NHẤT LÃM, CÁC TÁC GIẢ NHẤN MẠNH VỀ NHÂN TÍNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU, nên Ngài phải chết; và cả ba lần ngay sau khi Ngài loan báo cuộc Khổ Nạn, thì tội của các Tông Đồ được  nhắc đến. Cụ thể :
* Lần I: Sau khi Đức Giê-su loan báo Ngài bị giết chết do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, thì lộ ra tội của ông Phê-rô, cũng là thượng tế thời Tân Ước, còn ngu dốt về giáo lý, nên ngăn cản Đức Giê-su đừng để kẻ ác hại mình mới là dấu Thiên Chúa thương (x Mt 16,21-23).
Đức Giáo hoàng Pio XII vào Đại Chủng Viện Truyền Giáo ở Roma, ngài hỏi các thầy :
- Quyền lực nào mạnh nhất phá Hội Thánh ?
Các thầy nhao nhao trả lời :
-  Dạ thưa ma quỷ. ĐGH lắc đầu.
-  Cộng sản vô thần. ĐGH cũng lắc đầu, và còn nhiều ý kiến khác nhưng tất cả đều không đúng.
Cuối cùng ngài trả lời :
-  Quyền lực phá Hội Thánh chính là người Công Giáo ngu dốt về giáo lý.
Ngày nay ta cứ so sánh lòng say mê Thánh Kinh của người Công Giáo với anh em Tin Lành, hỏi ai hơn ai? Thậm chí hầu hết những người Công Giáo cầm cuốn Thánh Kinh không biết mở! Điều này thua xa người Tin Lành, chẳng những họ mở Sách Thánh rất nhanh và còn thuộc rất nhiều Lời Chúa. Bởi đó anh em Tin Lành rất hãnh diện khi hỏi Thánh Kinh nơi người Công Giáo vì biết họ biết không trả lời được! Hoặc người Công Giáo rất sợ đối thoại với anh em Tin Lành về Thánh Kinh! Hỏi sự ngu dốt về Thánh Kinh như thế của người Công Giáo, lỗi tại ai? Chỉ bao lâu hàng giáo sĩ trong Hội Thánh làm cho con chiên mình trổi vượt về Lời Chúa hơn các giáo phái Ki-tô ly khai, thì lúc ấy mới đáp ứng được khát vọng hiệp nhất của Chúa Giê-su đã tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha: “Xin cho chúng nên một, như Cha ở trong Con, để cho thế gian biết rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,22-23).
* Lần II: Sau khi Đức Giê-su loan báo Ngài bị giết chết bởi tay người đời, thì lộ ra gương mù của các Tông Đồ theo thói người đời không nộp thuế vào Đền Thờ. Dù Đức Giê-su đã giải thích Ngài là Vua, là Chủ Đền Thờ, không phải nộp thuế. Nhưng vì để khỏi gây cớ vấp phạm cho người khác, Ngài bảo ông Phê-rô thả câu bắt cá, lấy tiền từ miệng cá nộp phần Thầy trước, nộp phần ông sau (x Mt 17,22-27). Chính vì vậy mà Giới Răn thứ 5, Giới răn mới của Hội Thánh nhắc nhở cho các tín hữu phải có bổn phận đóng góp tiền của cho nhu cầu Hội Thánh, tùy theo khả năng, Đức Tin và lòng Mến (x Sách Giáo Lý Roma số 2041-2043).
Ngày nay nhìn vào lối sống của nhiều giáo sĩ Công Giáo, nhà các ngài ở rất sang trọng, không thiếu những tiện nghi cao cấp. Thế nhưng các đấng lại tích cực kêu gọi giáo dân đóng góp cho nhu cầu Nhà Thờ, làm nhiều giáo dân nhức nhối đặt câu hỏi: “Tại sao các đấng giàu thế?”
* Lần III: Sau khi Đức Giê-su loan báo Ngài bị lãnh án tử do các thượng tế và ký lục thì lộ ra tội các Tông Đồ trong thời Tân Ước cũng là thượng tế và  ký lục (người giỏi Luật) tranh nhau địa vị, quyền lực (x Mt 20,17t).
Thực vậy, ngày nay nhiều giáo sĩ vẫn đang tranh nhau về quyền chức, về nơi ở có nhiều lợi nhuận! Nếu không phải thế, thì tại sao ngay trong địa phận Saigon 13 năm nay, đức Hồng y đã ra lệnh cho các Hạt tự chia ranh giới cho thích hợp với Mục Vụ, thế mà nhiều Hạt vẫn không chia được! Có những Linh mục ở nơi “béo bở” cả mấy chục năm chưa đổi đi được, chỉ có Linh mục nào ở nơi ít “lợi nhuận” thì không trụ lâu. Nếu chúng ta nhìn về lịch sử Hội Thánh trong thời Trung cổ có tới ba Giáo hoàng tranh quyền, tranh chức: một ở Roma, một ở Pháp, một ở Bỉ,  ông nào cũng tự cho mình mới là Giáo hoàng kế vị thánh Phê-rô. Đây là trang sử đen tối nhất của Hội Thánh !
Vậy Tin Mừng Nhất Lãm nhấn mạnh Đức Giê-su bị giết chết: Hai lần do các thượng tế và ký lục (lần I và lần III) vì tự mãn không tin Đức Giê-su là Thiên Chúa, nên kết án Ngài nói phạm thượng! Nói tắt: Họ dốt nát về Kinh Thánh, nhằm mục đích dẫn người ta tin vào Đức Giê-su để được cứu độ (x Ga 3,24). Thánh Công Đồng Vat.II trong Hiến Chế Mạc Khải số 25 nhắc lại lời thánh Giê-rô-ni-mô: “Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô”. Lần II Đức Giê-su chết vì do người đời không nộp thuế vào Đền Thờ. Tội này nay ai cũng thấy nổi bật nơi hàng giáo sĩ trong Hội Thánh. Chính vì thế Đức Giê-su không tiếc lời mắng trách và phóng dữ xuống các vị lãnh đạo trong Do Thái giáo (x Mt 23). Tám lời chúc dữ trong Mt 23 cho các đấng lãnh đạo thời Chúa Giê-su, có phải là tâm hồn của người cha muốn khiển trách đứa con cả, đã làm khổ cha hơn đứa con thứ đi hoang trong Tin Mừng Lc 15,11t hay không?! Trong khi đó Đức Giê-su rất nhẹ nhàng với người phụ nữ ngoại tình (x Ga 8), cũng như chị Maria Madalena bị bảy quỷ ám, xin theo Chúa để được trừ quỷ, mà Chúa Giê-su chẳng có một lời nào mắng trách chị (x Lc 8,2).
B.TIN MỪNG CỦA THÁNH GIO-AN LẠI NHẤN MẠNH VỀ THẦN TÍNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU ĐÃ CHIẾN THẮNG SỰ CHẾT:
* Loan báo khổ nạn lần I: “Như ông Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải BỊGIƯƠNG CAO như vậy, ngõ hầu kẻ nào tin thì nhờ Ngài mà  được sự sống đời đời.” (Ga 3,14-15)
Đức Giê-su “BỊ giương cao” là bởi sa-tan đã đưa tội đến cho loài người. Nhưng “ở đâu tội lỗi đã làn tràn, thì ân sủng càng chan chứa gấp bội !” (Rm 5,20), để làm cho kẻ có tội tin vào Đức Giê-su Phục Sinh, thì được sống đời đời.
* Loan báo khổ nạn lần II: “Khi các ngươi NHẮC Con Người lên cao, bấy giờ các ngươi sẽ biết: Ta Hằng Hữu, và biết tự Ta, Ta không làm gì, nhưng Cha đã dạy Ta làm sao, Ta nói vậy” (Ga 8,28)
Người ta nhắc Đức Giê-su lên cao nghĩa là loài người đã cộng tác với sa-tan để treo Ngài lên thập giá. Nhưng chính lúc ấy họ mới nhận ra Ngài là Thiên Chúa. Cụ thể ông sĩ quan Ro-ma, nhìn Đức Giê-su bị đâm, nước và máu từ tim dốc xuống, ông hô lên:  “Đích thực người này là Con Thiên Chúa !” (Mc 15,39).
* Loan báo khổ nạn lần III: “Phần Ta, một khi Ta ĐƯỢC GIƯƠNG CAO khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta !” (Ga 12,32).
Đức Giê-su được giương cao nghĩa là Ngài tự hiến mình vì nhân loại để làm trọn ý Chúa Cha, hầu tập họp nhân  loại về cho Thiên Chúa.
Vậy qua ba lần Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn theo Tin Mừng của Gio-an, thánh sử muốn minh chứng bất cứ sự dữ nào: Tội lỗi, thần chết hay quyền lực satan, không thể làm chủ được Đức Giê-su, vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng, biến dữ ra lành, tội ra ơn, chết được chỗi dậy, cho những ai tin vào Ngài ! Thánh sử Gio-an trong viễn tượng ngày cánh chung, ông nói: “Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta. Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa.Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ." (Kh 7,9-10.14b-17).Bởi vì sự dữ hoàn toàn bị tiêu diệt. Và thánh Gio-an cũng nói về ngày cánh chung: Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa(Kh 21,1).“Biển” ở đây ám chỉ về sào huyệt của satan (x Mc 5,13).
Kết luận:
Qua những lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài theo Tin Mừng Nhất Lãm và Gio-an, Đức Giê-su đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về Ngài: “Chúa cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thực tôi, để lắng nghe như một người môn đệ. Tôi đã không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,4-6: Bài đọc I). Thánh Phao-lô ghi lại Đức Giê-su đã thực hiện lời ngôn sứ Isaia nói về Ngài: “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vì ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8: Bài đọc II). Nhưng ngôn sứ Isaia còn nói: “Có Thiên Chúa phù trợ tôi, vì thế tôi không hổ thẹn, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (Is 50,7: Bài đọc I). Thánh Phao-lô đã chứng minh Thiên Chúa phù trợ người đau khổ vì Chúa: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu (Tung Hô Tin Mừng). Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,9-11: Bài đọc II).
Như vậy, Chúa đã nhận lời người đau khổ kêu van: “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?” (Tv 22/21,2: Đáp ca).
Vì nhờ Chúa Giê-su là Thiên Chúa toàn năng, Ngài thể hiện sức mạnh Thiên Chúa tình yêu, chiến thắng tội lỗi người đời, kể cả tội hàng giáo sĩ. Đúng như lời thánh Phao-lô xác quyết: “Vì một người duy nhất (Adam), mà tội lỗi đã nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết ; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất đã sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị. Như vậy, ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,12.15.17.20).
Tình thương của Chúa mãnh liệt như thế, nên ông Mô-sê thốt lên: “Thiên Chúa nhân hậu và từ bi hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, và tội ác” (Xh 34,6-7). Thánh Phao-lô cũng thốt lên: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà chúng ta được cứu độ” (Ep 2,4-5).
THUỘC LÒNG.
Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. (Rm 6,4)
          http://phaolomoi.net

LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH


Gửi phản hồi - thắc mắc

Tên của bạn *
Địa chỉ
Email *
Điện thoại
   
Câu hỏi

Lên đầu trang
Các bài giảng khác: