BÀI GIẢNG
THỰC
TẠI ĐỜI NÀY CỨU TA HAY THIÊN CHÚA?
Lời Chúa hôm nay soi sáng ta cần phải tránh những
ngộ nhận:
Ä
Không phải ai giàu có là bị Chúa kết án.
Ä
Không phải ai được ăn sung mặc sướng là mắc tội.
Ä Đây không phải là định
luật bù trừ: Đời này khổ là tất yếu đời sau sướng và ngược lại. Vì có khi khổ
đời này là dấu khổ muôn đời ; hoặc đời này sung sướng có khi lại là dấu hạnh
phúc đời sau!
Ä Lời Chúa hôm nay cũng chưa
kết án kẻ giàu có bởi cách thu vén bất lương.
Giáo huấn Lời Chúa qua các Bài đọc hôm nay chỉ nhằm so
sánh hai loại người :
- Những kẻ chỉ trông cậy
vào thực tại đời này làm thỏa mãn nhu cầu thân xác sẽ phải khổ muôn đời.
- Người đặt niềm tin
nương tựa nơi Chúa sẽ được sống hạnh phúc vĩnh cửu.
I. NHỮNG
KẺ CHỈ TRÔNG CẬY VÀO THỰC TẠI ĐỜI NÀY LÀM THỎA MÃN NHU CẦU THÂN XÁC SẼ PHẢI KHÔ MUÔN ĐỜI
Qua miệng ngôn sứ Giêrêmia,
Chúa nói: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở
người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa,và lòng dạ xa rời Đức Chúa !
Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh
phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy,trong vùng
đất mặn không một bóng người” (Gr 17,5-6: Bài đọc).
Ai tin tưởng nơi người
đời, lấy ý phàm nhân dựa vào tiền của làm nơi nương tựa, nó sẽ trở nên ngu đầy
và gây ra tội ác :
- Tôn thờ cái bụng thay
Thiên Chúa.
- Dùng của vô ý thức,
gây đau khổ thêm cho người nghèo.
- Chỉ lo đến cái tôi.
- Tìm cách kết án Chúa
để chạy tội.
1/ Tôn thờ cái bụng thay Thiên Chúa
Đây là loại phú hộ “ngày ngày ăn mặc gấm vóc, yến tiệc linh đình”
(Lc 16,19b: Tin Mừng). Đúng là nó đã “lấy
cái bụng làm chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng phải xấu hổ” (Pl 3,19).
Kẻ chỉ cậy dựa vào tiền
của để hưởng thụ thì lên mặt khinh kẻ nghèo, trọng người giàu. Cụ thể :“Có
ngừơi đi vào đoàn hội, tiệc tùng, vàng bạc châu báu vấn đầy cổ, vòng đeo tai,
lắc vàng xếp hàng nơi cổ tay, y phục bảnh bao,lại có người nghèo cùng đi vào, y
phục lem luốc. Người ta chỉ trố mắt nhìn người giàu mà nói: “Xin mời ngài lên
an tọa chỗ danh dự này”, còn người nghèo, người ta chỉ: “hãy đứng đó, kia”, hay
“hãy ngồi dưới bệ chân người ta, thì
anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?” (Gc.2,2-4).
2/ Kẻ dùng tiền của vô ý thức, tăng thêm đau khổ cho
người nghèo
Anh Ladarô nghèo khổ
vì tam cùng :
- Bần cùng: Nghèo của, nghèo tình, không ai cho một viên
thuốc, chịu để lở loét khắp mình, cũng không một ai thí cho mẩu bánh thừa ăn đỡ
đói.
- Khốn cùng: Con chó thỉnh thoảng đến liếm ung nhọt trên thân
thể anh: bạn tâm giao của anh chỉ có vài con chó hoang (Lc 16,20.21b: Tin Mừng)
; người Do Thái coi dân ngoại như loài chó, đáng bị khinh dể (x Mt 15,21-27),
như thế anh Ladarô thấy “người ngoại” còn biết tỏ lòng thương giúp: “Chó đến liếm
máu mủ của anh”. Trong khi đó người có Đạo giàu của như ông phú hộ lại không
thèm ngó ngàng tới anh, bánh thừa vất xuống đất, không vất cho anh.
- Cùng đinh: bị người ta vất bỏ trước cổng nhà giàu, không
có thân nhân đưa về nhà. Anh cảm thấy tủi nhục, xem ra như Thiên Chúa cũng dồn
anh vào tam cùng: “Chốn tử vong Chúa đặt
con vào, quanh con bầy chó đã bao chặt rồi” (Tv 22/21, 16-17).
Ngôn sứ Amos khiển
trách kẻ giàu đối với người nghèo: “Giàu
nằm trên giường ngà, y phục bảnh bao, dầu thơm nặc mùi, yến tiệc đầy cao lương,
rượu nồng hảo hạng, ca hát inh ỏi suốt ngày đêm,nhưng chẳng quan tâm đến đồng
loại mình đang đau khổ” (Am 6,4-5). Đức Giêsu mô tả kẻ nghèo thê thảm hơn: Chỉ
ước được ăn mẩu bánh từ bàn ông phú hộ vất xuống. đó là những miếng bánh người
giàu dùng để lau chén đĩa, lau tay thay vì dùng khăn! Làm như thế để tỏ ra mình
thuộc hạng quý tộc! Cho nên “phần lớn nỗi thống khổ của người nghèo, là
do họ nhìn thấy người giàu dùng của phung phí vô ý thức”. Thực vậy, có
những người nghèo, ta biết y phục của họ may ráp nối từng mảnh, kiếm ăn bữa no bữa
đói, lúc lâm bịnh, cỏ cây hoang dùng làm thuốc, nhà ở chui rúc như hang chuột,
lại sống bên cạnh nhà trọc phú, thấy người giàu rửa tiền vào những chuyện vô bổ,
chỉ nội trong một ngày đi chơi, họ tiêu số tiền hơn lương trả cho một osin còng
lưng phục vụ chủ suốt cả năm ; hoặc người nghèo nhìn thấy người giàu đốt từng
bao thuốc đắt tiền, trị giá bằng cả tháng lương của họ ; có khi người nghèo
nhìn thấy khẩu phần của con chó nhà giàu, mà ước được ăn như nó cũng chẳng ai
cho!
Những kẻ xài tiền của vô
ý thức như thế, thánh Giacôbê nguyền rủa: “Giờ
đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp
đổ xuống trên đầu các người.Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các
người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là
bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các
người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5,1-3).
Kẻ dùng tiền vô ý thức
đã tự đào vực thẳm sâu rộng ngăn cách giữa giàu và nghèo, người giàu vào lúc lâm
nguy mới kêu cầu thần thánh cứu giúp, cụ thể như tên phú hộ khi bị dìm sâu
trong hỏa ngục, hắn van xin tổ phụ Abraham sai Ladarô nghèo khổ đang ở trên
Thiên Đàng, nhỏ cho hắn một giọt nước để làm dịu lưỡi, vì lửa hỏa ngục quá
nóng, nhưng bị tổ phụ Abraham khước từ: “Con
ơi, hãy nhớ lại suốt đời của con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn
Ladarô suốt đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây,
còn con thì phải chịu khổ. Hơn nữa, giữa
chúng ta đây và các con đã có một vực
thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không thể được, mà bên
đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,25-26: Tin Mừng).
3/ Kẻ chỉ lo đến cái tôi
Tên phú hộ lúc sống
chỉ biết làm vui thỏa cái TÔI trong yến tiệc linh đình … Chính vì cái TÔI to
phình ấy, nên bị quăng tùm xuống đáy hỏa ngục, trong lò lửa ác nghiệt hắn vẫn
không biết thương xót ai, lửa không làm teo cái TÔI của hắn, mà dường như còn
phình to hơn, như lời hắn kêu van: “Lạy cha Abraham, xin thương xót TÔI , và
sai Ladarô nhúng một chút nước vào đầu ngón tay mà nhỏ vào lưỡi TÔI, vì TÔI đang
quằn quại trong ngọn lửa này” (Lc.16,
24: Tin Mừng).
Trong hỏa ngục thiếu
gì người khổ quanh hắn, thế mà hắn chỉ xin MỘT giọt nước nhỏ trúng tọa độ lưỡi
TÔI mà thôi ! Sao hắn không xin mấy thùng nước tạt xuống khắp hỏa ngục, ít là mỗi
người cũng đuợc một chút nước làm dịu mát !? Hắn xin một giọt nước không ai
cho, hắn lại “xin tổ phụ Abraham sai Ladarô về răn dạy năm anh em TÔI, để
chúng đừng bắt chước sống như TÔI sẽ phải khổ” (Lc 16,27-28: Tin Mừng). Như
thế hắn vẫn dừng lại cái TÔI nơi năm anh em, sao hắn không xin Ladarô về báo
tin cho tất cả mọi người giàu trên thế gian biết cách dùng tiền của đúng ý Chúa
? Cái TÔI nó là bản năng con người xuất hiện ngay khi còn trong bụng mẹ. Điều
này đã được minh chứng trong truyện bà Rêbêcca (x St.25,19-27), và truyện bà Thamar
(x St.38,27-30). Cả hai bà này đều mang thai đôi, hai đứa đánh nhau trong bụng đứa
nào cũng đòi tranh ra trước, vì làm anh được hưởng 2/3 gia tài của cha mẹ (x
Dnl 21,17). Các bà quá đau vì chúng đánh nhau trong bụng, nên đã dặn cô đỡ: “Cháu
nào ra trước, xin cô lấy chỉ đỏ buộc vào tay cháu, kẻo hai đứa sinh cùng khuôn,
rất khó phân biệt đứa nào là anh, đứa nào là em!” Một đứa nghe thế liền thò tay
ra khỏi cửa mình mẹ, để được buộc chỉ đỏ, đứa kia tức khí đạp cho đối phương một
phát, vì bị đạp đau, nó thụt tay vào, đứa kia chui vọt ra !
Bởi thế, vua thánh
Đavid nói: ‘Từ trong thai mẫu, tôi đã là kẻ bất chính, ngày mới sinh, tôi đã
mắc tội rồi !” (Tv.51/50, 7)
Có đôi vợ chồng kia bất hòa với nhau đòi chia gia tài. Chồng nghĩ rằng
mọi đồ dùng trong nhà đều do tiền mình làm ra mua sắm, nên anh nắm chắc mình phải
được phần nhiều hơn. Trong khi đó vợ lại nghĩ của chồng công vợ, mình không cần
kiệm gìn giữ thì nhà chẳng có gì, cho nên mình phải được chia nhiều hơn chồng.
Do đó, chị nói với chồng :
-
Đồ gì trong nhà là CÁI, thuộc phái
nữ, đó là của tôi. Và chị bắt đầu đếm: cái tủ, cái giường, cái tivi, cái xe,
cái nhà…
Chồng nghe thế, thì trong nhà này chẳng còn vật gì là của anh, anh vội
đứng lên chụp con dao rựa dùng chặt cây, và quát :
-
Mẹ mày, ĐỰC rựa đây!
4/ Kẻ giàu tìm cách kết án
Chúa để chạy tội
Tên phú hộ xin tổ phụ
Abraham cho Ladarô hiện về răn dạy năm anh em hắn, không phải vì hắn có lòng
thương muốn cứu anh em, nhưng đó chính là mánh
lới hắn muốn tìm cách chạy tội, nếu tổ phụ Abraham nhận lời đề nghị này của
hắn, chắc chắn hắn có cớ quy tội cho Chúa: Tôi nay bị khổ dưới hỏa ngục là do
lỗi của Chúa đã không cho người chết hiện về báo cho tôi, Ngài đã không làm mọi
cách để giáo dục người ta. Tôi đây là nạn nhân !? Thực tế thì Chúa đã cho anh
La-da-rô, em của Matta và Maria thuộc gia đình giàu có sống lại, để với trải
nghiệm dùng tiền của người giàu mới biết mà dạy người khác (x Ga.11). Nhưng
người ta lại muốn giết La-da-rô giàu có, chứ nào có ai muốn nghe người giàu
sống lại dạy đâu !? (x Ga 12, 10).
Mặt khác, nếu tổ phụ Abraham
nhận lời phú hộ cho Ladarô nghèo khó sống lại về răn đời, thì người nghèo làm sao có kinh nghiệm dùng của
để dạy người giàu ? Và nếu chỉ nghe lời người chết về dạy, thì Chúa tự hạ giá
lời các ngôn sứ thấp hơn lời kẻ chết sống lại sao ? Do đó tổ phụ Abraham đã trả
lời cho tên phú hộ: “Chúng đã có Môsê và các ngôn sứ, chúng phải nghe các
ngài” (Lc 16,29: Tin Mừng).
Vậy xưa tên phú hộ xin cho La-da-rô nghèo sống lại để dạy người còn sống biết
dùng tiền của, làm sao sánh bằng hôm nay ta đi dâng Lễ, được gặp chính Con
Thiên Chúa Phục Sinh từ Trời đến dạy (x Dt 1,2), nhưng liệu ta có nghe không ?
Vì thế thánh Phaolô
lên tiếng cảnh giác: “Nếu chúng ta cố
tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn hy lễ nào đền tội được
nữa, mà chỉ còn phải sợ hãi đợi chờ cuộc phán xét và ngọn lửa nóng bừng thiêu
huỷ các đối tượng của Thiên Chúa. Ai khinh thường luật Môsê, theo lời chứng của
hai hay ba người, thì sẽ bị xử tử thẳng tay. Phương chi kẻ đã chà đạp Con Thiên
Chúa, đã xúc phạm đến Máu Giao Ước đã thánh hiến mình và nhục mạ Thần Khí ban
ân sủng, thì anh em thử nghĩ xem, kẻ ấy đáng chịu hình phạt ghê gớm hơn biết
mấy! (Dt.10, 26-29).
II. NGƯỜI
ĐẶT NIỀM TIN NƯƠNG TỰA NƠI CHÚA SẼ ĐƯỢC SỐNG HẠNH PHÚC MUÔN ĐỜI
Đức Giêsu chúc phúc
cho người nghèo đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, chỉ mong được Nước Trời làm gia
nghiệm (x Mt 5,3). Họ nghèo vật chất nhưng lại giàu Lời Chúa, giàu lòng nhân
ái, đó mới thực là nghèo giống Chúa Giêsu (x 2 Cr 8,9). Vì thế ngôn sứ Giêrêmia
nói: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa , và có Đức Chúa làm chỗ nương
thân. Người ấy như cây trồng bên dòng
nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên
cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái”
(Gr 17,7-8: Bài đọc). Rõ ràng ngôn sứ mô
tả người đặt niềm tin nương tựa nơi Chúa là người đang thực hành lời kinh: “Ai vui thú với Lề Luật Chúa, nhẩm đi nhắc
lại suốt đêm ngày, người ấy tựa cây trồng bên suối nước…” (Tv 1,2-3). Thật
“hạnh phúc thay người thành tâm thiện
chí, hằng ấp ủ Lời Chúa trong lòng, nhờ kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả” (Lc
8,15: Tung Hô Tin Mừng). Như thế người
nghèo được Chúa thương chúc phúc, và được hưởng Tín điều Các Thánh Cùng Thông
Công.
1/ Người nghèo được Chúa thương chúc phúc
Thực vậy, Chúa Giêsu
không nói gì về công đức của anh Ladarô, vì chính Ngài lấy tên Ladarô đặt tên cho người
nghèo khổ, tên ấy có nghĩa là “người được
Chúa thương xót”.
Như vậy lý do chính người ta được cứu độ là do lòng
thương xót của Chúa, đó mới gọi là ơn, nếu do việc ta làm thì đó là công.
Bởi vậy ơn cứu độ được gọi là ơn nhưng không. Đúng như lời kinh ta vừa đọc: “Phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa”
(Tv 40/39,5a: Đáp ca)
2/ Được hưởng Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công
Đức Giê-su có ý lấy
tên Ladarô đặt cho anh nghèo khổ này, chắc chắn Ngài muốn cho mọi người phải
nhớ đến anh Ladarô em của hai chị Matta và Maria, là gia đình giàu có, Ladarô đã
chết thối bốn ngày được Đức Giêsu cho sống lại (x Ga 11), là để thưởng công cho
chị Maria chỉ để tâm nghe Lời Đức Giêsu, và chị Matta mải miết dọn tiệc thiết
đãi Đức Giêsu để bồi dưỡng nghị lực đi phục vụ (x Lc 10,38-42). Mà chính Đức
Giê-su tự nhận mình sống tinh thần ngôn sứ Êlya và ngôn sứ Êlysê (x Lc
4,25-27), thì Ngài không thể thua hai ông này :
- Ngôn sứ Êlya cho con
bà góa Sarepta sống lại, vì bà góa nghèo khó này chỉ có một chiếc bánh đã
nhường cho ngôn sứ Êlya ăn (x 1 V 17, 7t).
- Ngôn sứ Êlysê cho con
bà lớn thành Shunem sống lại, vì bà vẫn giúp ông có nơi trú ngụ (x 2 V 4,18-37).
- Kìa ông Giakêu lấy nửa
gia tài chia sẻ liền được Đức Giêsu tuyên bố: “Cả nhà ông được cứu độ” (x Lc 19,9), huống chi cả hai chị Matta và
Maria, người thì để tâm nghe Lời Chúa, người thì lo dọn bàn ăn mời Đức Giêsu
dùng, mà Ngài không cứu em họ khỏi chết hay sao ?
Bởi đó, ơn cứu độ ta
được trước nhất là do lòng thương xót của Chúa, thứ đến ta được hưởng nhờ Tín
Điều Các Thánh Cùng Thông Công.
Qua dụ ngôn phú hộ và
Ladarô trên đây đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được? Ta là Đức Chúa , Ta dò xét lòng người, thử
thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó
làm” (Gr 17,9-10: Bài đọc).
Do đó thánh Phaolô viết
thư cho môn đệ Giám mục Timôthê nhằm khuyên hết mọi người: “Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì
cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ”
(1Tm 6, 7-8). Như Lời Kinh Thánh ta vẫn đọc: “Dù sống trong danh vọng, con người cũng không thể trường tồn, thật nó
chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết. vì khi chết nó đâu mang được cả,
kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần!” (Tv 49/48,12.18).
Sau khi chúng ta tìm
hiểu dụ ngôn phú hộ và Ladarô, điều cần chú ý hơn cả là: người giàu có về của
cải mà không biết chia sẻ, chỉ ăn sướng mặc sang, lo cho bản thân, tội ấy còn
nhẹ hơn loại “người nghèo của lại nghèo
cả Chúa”, loại người này chẳng bao giờ đi tìm của nuôi linh hồn, nó dồn hết
thì giờ vào việc tìm kiếm của cải vật chất để lo hưởng thụ, làm ít ăn nhiều, có
tiền là tiêu phung phí vào việc ăn chơi vô bổ, chẳng bao giờ giúp ai được điều
gì, thấy người giàu hơn mình thì bất mãn và trách Chúa bất công: đã cho kẻ vô
đạo giàu hơn kẻ có đạo như mình ! Loại nghèo này luôn mơ ước làm giàu, nhưng đời
này vẫn nghèo vẫn khổ, chắc chắn đời sau khổ hơn nữa ! Xuống hỏa ngục còn bị
tên phú hộ giàu của ngồi trên đầu nó!
Ông Alfred Adler nói: “Kẻ nào không quan tâm tới người khác, chẳng
những nó gặp nhiều khó khăn trong đời, mà còn là kẻ gây tai họa cho xã hội”.
Một người phụ nữ có
danh là Bà Chằng, mọi người vẫn gọi như thế vì nó hợp với bản tính dữ dằn của
bà. Khi bà chết, quỷ liền lôi ngay bà đi, vì nó cho rằng bà này sống ích kỷ và
rất khó nết với mọi người, chắc chắn sẽ xuống hỏa ngục không cần đợi Chúa xét
xử nữa !
Thiên thần bản mạnh
của bà giằng co với quỷ và kêu nài với Chúa :
- Xin Chúa xét xử cho bà này theo lòng thương
xót của Ngài. Không thể để quỷ lôi bà đi ngay được!
- Con hãy mở sổ nhật ký xem bà có làm một điều
tốt nào cho ai không? Thiên Chúa nói với thiên thần.
Thiên thần mau mắn
lật từng trang nhật ký về đời sống Bà Chằng, lật cả mấy ngàn trang rồi mà chẳng
thấy có việc tốt nào cả… À, may quá, thiên thần reo lên và thưa với Chúa :
- Lạy Chúa, có một lần
bà này đã cho người lối xóm một cọng hành ạ!
- Thế thì con hãy dùng
cọng hành ấy mà kéo bà ấy lên! Chúa bảo thiên thần.
Thiên thần mau mắn
làm ngay. Bà Chằng bám vào cọng hành và được thiên thần kéo lên. Thấy vậy nhiều
người dưới Hỏa ngục vội bám theo bà mong được “ăn theo”, Bà Chằng vừa giãy đạp,
vừa chửi … ! Thế là cọng hành bị đứt, cả chùm người lại rơi xuống Hỏa ngục!!
Hãy nhớ lời các Tông
Đồ dạy :
“Đức ái phủ lấp muôn vàn tội lỗi!” (1 Pr 4,8). Vì “ai có lòng nhân ái thì được thắng án, án xử
chỉ tàn nhẫn cho kẻ bất nhân!” (Gc 2,13).
THUỘC LÒNG.
Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng
mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ.Còn
những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn
ngu xuẩn độc hại ! (1Tm 6,7-9)
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH