CN IV MV / B
Bài đọc 1: (2 Sm 7: 1-5, 8-11,16)
Bài đọc 2: (Rm 16: 25-27)
Tin Mừng: (Lc 1: 26-38)
Chúa nhật thứ III mùa Vọng, chúng ta được giới thiệu một
nhân vật từ hoang địa ra đi để dọn đường cho Chúa đến, đó là Gioan Tiền Hô, là tiếng
hô trong hoang địa: Hãy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Hôm nay, Chúa nhật
cuối mùa Vọng, chúng lại được giới thiệu một nhận vật có tính cách quyết định
cho chương trình cứu chuộc con người, đó là Trinh Nữ Maria.
Vua Đavít đã chiến thắng kẻ thù, thống nhất đất nước. Ông
đang thống trị Israen. Ông biến Giêrusalem thành thủ đô và ông xây lâu đài ở
đó. Nghĩ đến những ơn huệ của Chúa Thượng đã ban cho ông và cho dân của ông,
ông cảm thấy áy náy và đã thổ lộ với ngôn sứ Nathan: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng
gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải.” Nathan thưa với vua: “Những
gì ngài ấp ủ trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Đức Chúa ở với ngài.” Nhưng
ngay đêm hôm đó, Đức Chúa đã phán với Đavít qua ông Nathan rằng: “Ngươi mà xây
nhà cho Ta sao?”
Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu ở khắp mọi nơi, hết đời nọ đến
đời kia; nhưng con người lại muốn cầm chân Ngài lại, muốn giới hạn quyền năng của
Ngài. Ngài sẽ mãi mãi hiện diện và đồng hành với con người mỗi ngày cho đến tận
thế. Và Đức Chúa đã chứng minh cho vua Đavít thấy: “Từ ngày Ta đưa con cái
Israen lên Aicập cho đến ngày hôm nay, Ta không hề ở trong một ngôi nhà, nhưng
Ta đã nay đây mai đó trong một cái lều và trong một nhà tạm.”
Và sau khi kể cho vua Đavít thấy Ngài đã hiện diện và đồng
hành với ông và dân Israen thế nào trong quá khứ, Ngài lại cho ông biết: “Khi
ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi
ngươi đứng lên kế vị ngươi – một người do chính ngươi sinh ra -, và Ta sẽ làm
cho vương quyền nó vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta
sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta là Cha; đối với
Ta, nó là con.” (xem 2 Sm 7: 1-13)
Lời tiên báo ấy lại trùng hợp với lời sứ thần truyền tin
cho Trinh Nữ Maria: “Thưa bà Maria. Xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và
này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên
cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho
Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời,
và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận.(Lc. 1: 30-33)
Trong cuộc đối thoại
với sứ thần,Trinh Nữ Maria chỉ nói hai câu:”Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi
không biết đến chuyện vợ chồng.” và câu nói thứ hai: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của
Chúa, xin cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” Với hai câu nói trên, Trinh Nữ Maria
đã đi từ ngạc nhiên bối rối đến ưng thuận xin vâng.
Điểm ngạc nhiên bối rối thứ nhất là được sứ thần Thiên Chúa
ghé nhà. Điểm ngạc nhiên thứ hai là Trinh Nữ Maria biết mình cũng chỉ là một
thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác ở một vùng quê héo lánh; thế mà sứ
thần lại nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy
ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Ngạc nhiên và bối rối, Trinh Nữ đã tự hỏi lời chào
ấy có ý nghĩa gì. Điểm ngạc nhiên thứ ba là sứ thần cho biết: “Này đây bà sẽ thụ
thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được
gọi là Con Đấng Tối Cao...” Chính điểm ngạc nhiên thứ ba này càng làm cho Trinh
Nữ Maria ngạc nhiên và bối rối hơn nữa và cảm thấy có một điều gì đó vượt quá
thực trạng của mình, nên Trinh nữ đã lên tiếng hỏi: “Việc ấy sẽ xảy cách nào,
vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
Trinh nữ không nghi ngờ, thắc mắc, nhưng chỉ muốn biết sự
việc sẽ được thực hiện bằng cách nào. Có hai lý do để Trinh Nữ Maria ngạc
nhiên: lý do thứ nhất là Trinh Nữ đã quyết giữ cuộc sống đồng trinh để phụng sự
Thiên Chúa; lý do thứ hai là Trinh Nữ mới chỉ là người đính hôn với Giuse,
không biết đến chuyện vợ chồng. Thế thì
làm sao có thể thụ thai và sinh con được? Đó là suy luận bình thường của con
người. Trước những biến cố trong cuộc sống, chúng
ta phải biết ngạc nhiên để đặt vấn đề. Những gì trái với thường tình mới gây
cho chúng ta ngạc nhiên: tại sao, vì đâu? Mẹ Maria cũng ngạc nhiên khi nghe sứ
thần nói: bà sẽ thụ thai và sinh con. Đó
là thắc mắc hợp lý.
Trinh Nữ Maria, khi nghe sứ thần truyền tin, Trinh Nữ
không xin một dấu chỉ để làm sáng tỏ sự bối rối ngạc nhiên của mình, nhưng xin
làm sáng tỏ cách thức Thiên Chúa thực hiện nơi Trinh Nữ.
Sứ thần liền cho Trinh Nữ biết cách Thiên Chúa hành động:
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa...” Để
minh chứng quyền năng của Thiên Chúa, sứ thần đã nêu lên trường hợp bà
Elisabeth, tuy tuổi già, nhưng đã mang thai một con trai được sáu tháng; và sứ
thần khẳng định: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được. “Nghe
thế, Trinh Nữ đã mau mắn xin vâng theo ý muốn của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là
nữ tỳ của Chúa, xin cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” Đó là câu nói thứ hai của
Trinh Nữ Maria.
Chương trình và kế hoạch cứu chuộc loài người của Thiên Chúa đã được
thực hiện khi Trinh Nữ Maria nói lời ưng thuận.
Qua lời ưng thuận, Mẹ Maria đã bộc lộ sự khiêm nhường của
mình và sự tuân phục thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ tự nhận biết mình là một nữ tỳ
của Chúa và sẵn sàng để Thiên Chúa hành động theo ý của Ngài, dù không biết ý định
của Ngài sẽ dẫn Mẹ đến đâu; nhưng trong niềm tin, lòng mến và sự tuân phục, Mẹ
đã thưa xin vâng.
Thiên Chúa đã có thể đặt Mẹ Maria trước một sự việc đã rồi
và chỉ cần sai thiên sứ đến báo tin rằng Mẹ đã thụ thai bởi Thánh Thần; nhưng
Thiên Chúa không làm như thế. Ngài muốn có sự tự do ưng thuận của Mẹ Maria
trong chương trình cứu chuộc loài người, không những vì lòng tôn trọng nhân vị
của Mẹ Maria, mà còn để làm cho Mẹ trở nên người cộng tác với Ngài bằng sự chấp
thuận ý thức và tình nguyện. Một tiếng “Xin vâng” mang
tính cách phó thác, dấn thân vào công trình hoàn toàn mới lạ và vượt trên mọi dự
đoán của con người. Qua tiếng “xin vâng”, Mẹ Maria đã đón nhận Con Thiên Chúa
làm người trước khi đón nhận Ngài nơi cung lòng của mình.
Như Mẹ Maria,
chúng ta cũng phải biết lắng nghe và đón nhận lời Thiên Chúa, biết nhận ra những
dấu chỉ của Ngài trong cuộc sống của mình, và như thế, Ngài sẽ làm cho chúng ta
trở thành những cộng tác viên của Ngài.
Mục đích của mùa
Vọng không phải chỉ để dẫn đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh, vì Chúa Cứu Thế đã giáng
sinh hơn hai ngàn năm rồi; nhưng mùa Vọng vẫn lấy lễ Giáng Sinh làm điểm tựa để
mỗi người chúng ta hướng về tương lai, hướng về ngày quang lâm.