HAI NGƯỜI MÙ
Bị ném đá, Chúa
Giêsu lánh đi và ra khỏi Đền Thờ. Dọc đường, thấy một người mù bẩm sinh, Ngài
dừng lại, nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi
bảo anh ta: ”Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa". Anh ta làm như vậy và khi về
thì nhìn thấy được.
Chúa Giêsu đã
chữa khỏi mù cho bao nhiêu người? Chỉ có một người mù từ khi mới sinh! Không.
Ngài đã chữa khỏi mù không phải một, nhưng là hai người.
Người mù đầu
tiên là người mù bẩm sinh. Người ta cứ nghĩ: mù là do tội của đương sự hay của
cha mẹ. Mù là một hình phạt ư ? Và Chúa
đã xác định: ”Không phải y cũng không phải cha mẹ y đã phạm tội, nhưng để công
việc của Thiên Chúa được tỏ ra nơi y.”
Người mù bẩm
sinh khác với người mù thứ phát, tức mù do tai nạn…Người mù bẩm sinh chắc không
biết thế nào là màu sắc xanh-đỏ, cũng không phân biệt được ánh sáng và bóng
tối. Người mù nhận thức được thế giới khách quan nhờ hướng dẫn, chỉ dạy, và
ngày nay nhờ phát minh chữ nổi nên họ trao đổi được ít nhiều với thế giới bên
ngoài; nhưng những nhận thức của họ ít nhiều bị hạn chế. Cứ xem mấy ông thầy
bói mù đi xem voi thì biết. Ông sờ cái đuôi voi thì bảo là cái chổi, ông ôm lấy
chân voi, lại bảo cái cột nhà, còn ông sờ thấy tai voi phe phẩy, lại bảo là cái
quạt. Thật đáng thương!
Thế nhưng có
những người có đôi mắt tinh thường, nhìn thấy đuôi voi lại cứ quả quyết là cái
chổi, thấy chân voi lại cứ nhất định là cột nhà và thấy tai voi lại khăng khăng
bảo là cái quạt. Họ là ai?
Chúa Giêsu đã
chữa lành cho người mù bẩm sinh. Trước những bằng chứng rõ ràng như thế, nhưng
người ta vẫn không tin, vẫn nghi ngờ và sinh chia rẽ: ”Ông ta không phải là
người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát". ”Một người tội lỗi
sao có thể làm được những dấu lạ như thế được?"
Họ mù do đâu?
Do thành kiến, do xét đóan, kiêu căng, ích kỷ, do gian dâm, ô uế, tham lam… Họ
đổi trắng thay đen, biến sai thành đúng (Ep,5:4-6).
Ngay như việc Chúa chữa lành người mù ngay trước mặt họ, thế mà họ vẫn cố tình
không muốn tin, lại chối từ sự thật. Họ câu nệ về hình thức hơn nội dung. Thay
vì lề luật là phương tiện để đạt đến cứu cánh, thì họ lại lấy phương tiện làm
cứu cánh: ”Chúng ta là môn đệ của ông Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với
ông Môsê, nhưng chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà đến.”Cật vấn hết người mù
lại chất vấn thêm cha mẹ để cố moi cho được những gì có thể đập đổ chân lý, còn
người mù vẫn một mực tôn vinh Đấng đã chữa lành cho mình; anh bị người ta xem như
là người tội lỗi: ”Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mầy lại muốn làm thầy
chúng ta ư?” và họ đã trục xuất anh khỏi hội đường.
Một tội nhân
công khai bị tuyệt thông. Anh bị cấm không được vào nhà thờ. Anh than thở nỗi
buồn của mình với Chúa: ”Lạy Chúa, người ta không cho con vào, vì con là một tội
nhân. ”Chúa trả lời: ”Đừng phàn nàn con ạ. Họ cũng đâu có cho Ta vào".
Đó là người mù
thứ hai: Họ sáng mắt, nhưng không sáng lòng; họ mù tâm linh, mù tinh thần.
Ngược lại,
người mù được chữa lành, khi được người ta hỏi: ”Còn anh, anh nghĩ gì về người
đã mở mắt cho anh?” Anh đã trả lời: ”Người là một vị ngôn sứ". Anh đã tuyên
xưng đức tin: ”Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai
kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời người ấy".
Sau khi bị trục xuất, gặp lại anh, Chúa hỏi: ”Anh có tin vào Con Người không?” Khi biết Đấng ấy là người đang nói với anh,
anh đã tuyên xưng: ”Thưa Ngài, tôi tin.”
Từ những chất
liệu của miệng: nước bọt và lời nói, Chúa đã chữa lành hai hạng người mù. Với
người mù bẩm sinh thì Chúa chỉ cần dùng nước bọt là xong; nhưng với người sáng
mà mù thì Chúa lại dùng Lời hằng sống để chữa trị:”Ta đã đến thế gian hầu những
kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù” (Ga
9:39). Chúng ta không gặp Chúa, vì chúng ta không biết phải tìm Ngài ở đâu.
Người ta nhìn
anh mù như là một tội nhân không đáng để được chữa lành, nhưng với Thiên Chúa
thì: ”Không phải y cũng không phải cha mẹ y đã phạm tội, nhưng để công việc của
Thiên Chúa được tỏ ra nơi y. ”Công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện không những
ở việc chữa người mù được xem thấy, nghiã là bề ngoài, mà còn ở tận đáy sâu của
tâm can con người như lời Chúa phán cùng ông Samuel: ”Ta không xem xét theo
kiểu con người, vì chưng con người nhìn
xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn.” Trong số bảy anh em nhà
Isai, Chúa đã chọn đứa con út có mái tóc hoe, có đôi mắt và gương mặt xinh đẹp
đang đi chăn chiên ngoài đồng. Công việc của Thiên Chúa là thế đó, khác với dự
đoán và toan tính của con người.
Như lời thánh
Phaolô đã viết cho tín hữu Êphêxô: ”Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong
Chúa, anh em lại là ánh sáng. ”Chúng ta phải” ăn ở như con cái ánh sáng, đừng
cộng tác vào những công việc vô ích của con cái bóng tối” (Ep 5:8), để khỏi tái
mù và bị xét xử như lời Chúa đã nói: ”Tôi đến thế gian này chính là để xét xử:
cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù." Và ”Nếu
các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'Chúng
tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn.”
Như người mù
được chữa lành đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người, chúng ta
cũng phải trở nên những Silôác của Thiên
Chúa.