Thiên Chúa
là Tình Yêu. Ngài vẫn yêu thương chúng ta dù cho chúng ta đang ở trong tình
trạng tội lỗi, phản nghịch với Ngài.”Nếu ta không trung ín, Người vẫn một lòng
trung tín, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2:13)
Khi dân Do
thái xuất hành qua sa mạc, họ khát nước, đã phàn nàn với ông Môsê: ”Tại sao ông
dẫn chúng tôi ra khỏi Aicập để cho chúng tôi, con cháu và đoàn súc vật của
chúng tôi phải chết khát như vầy?” Họ phàn nàn, oán trách Thiên Chúa:”Chúa có ở
với chúng tôi hay không?” Dù cho con người vô ơn bạc nghĩa, Thiên Chúa vẫn quan
tâm chăm sóc đến dân Ngài, đã qua ông Môsê cung cấp nước cho họ trong sa mạc.
Đi đường mỏi
mệt, đến thành Samari, lúc ấy cũng khoảng mười hai giờ trưa, đến bên bờ giếng
Giacóp, Chúa Giêsu ngồi xuống đó. Vừa lúc ấy, có một phụ nữ Samari đến lấy
nước. Ngài xin chị cho một ít nước uống. Người Samari và người Do thái vốn kình
địch nhau, người phụ nữ liền nói: ”Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một
người Samari cho ông uống nước sao?”
Nhưng Chúa
Giêsu không đếm xỉa gì đến việc phân cách giữa người Do thái và người Samari,
Ngài lại nói với người phụ nữ: ”Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là
người nói với chị: 'Cho tôi chút nước uống', thì hẳn chị đã xin, và người ấy
ban cho chị nước hằng sống". Chị thắc mắc: ”Ông không có gầu, mà giếng lại
sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?". Ngài trả lời: ”Ai uống nước này
sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa và nước tôi
cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời
đời". Thứ nước tuyệt vời quá! và có lẽ người phụ nữ đã thầm nghĩ: làm gì
có thứ nước ấy, nên đã mỉa mai xin với Chúa:”Xin ông cho tôi thứ nước ấy, để
tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước".
Chị chỉ hiểu
nước hằng sống như bao nhiêu thứ nước khác. Chúa Giêsu lần lượt khơi dậy niềm
tin nơi người phụ nữ . Cuối cùng thì niềm tin của chị cũng được đánh động: ”Tôi
biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho
chúng tôi mọi sự". Và Chúa Giêsu đã tiết lộ: ”Đấng ấy chính là tôi, người
đang nói với chị đây."
Chúa Giêsu
là Đấng Mêsia. Chính Ngài là nước hằng sống, nước mà ai uống" sẽ trở thành
nơi người uống một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời". Qua
Đức Giêsu, Môsê mới, loài người được đón nhận một thứ nước: đó là nước hằng
sống.Đức Kitô là nguồn mạch đem lại cho con người sự sống đời đời.
Nhận ra ân
huệ của Thiên Chúa ban và nhận ra ai là người đang xin nước uống là hai điều
kiện để xin và được ban cho nước hằng sống. Đấng có thể ban cho người phụ nữ
nước hằng sống chính là Đức Giêsu Kitô, và ân huệ của Thiên Chúa ban là tình
thương của Ngài đối với con người. Đó là niềm tin vào Thiên Chúa. Như con nai
khát khao dòng suối, chúng ta cũng phải khát khao tìm gặp Ngài, tìm đến dòng
suối mát của Ngài.
Đối với cái
nhìn của người đương thời, người phụ nữ Samari kia là hạng người nào? Có thể
người ta xem chị là một phụ nữ lăng loàn vì đã có đến năm đời chồng lại còn
đang ăn ở với một người thứ sáu không phải là chồng. Người ta xem chị như hạng
người tội lỗi, sống vô luân. Tự bản thân, người phụ nữ cũng nhận ra sự cách
biệt giữa mình và người đang xin nước uống. Nhưng với Chúa Giêsu lại khác. Dù
có khả năng thấu suốt những bí ẩn của cuộc đời chị, Ngài không đối xử cách
biệt, không phê phán, không xét đoán, nhưng bằng sự tôn trọng, thân tình, thông
cảm. Ngài hiểu rõ tâm hồn chị đang khao khát những gì. Ngài làm cho người phụ
nữ ý thức về sự trống rỗng của mình để từ đó hướng dẫn chị cách thế để khỏa lấp
sự trống rỗng ấy, không phải từ bên ngoài mà từ bên trong bản thân chị. Đối với
chúng ta, Thiên Chúa cũng hành động như thế.
Chúa Giêsu
đã giúp cho người phụ nữ nhận ra con người thực của mình giữa cái thiện và cái
ác, giữa điều tốt và điều xấu. Ngài thức tỉnh tâm hồn con người nhận ra ân huệ
của Thiên Chúa. Người phụ nữ Samaria
đang khát tìm hạnh phúc, tìm tình yêu, nhưng những khát vọng ấy vẫn còn là
những thứ khát vọng chóng qua nơi con người. Chúa Giêsu đã hướng dẫn chị đi tìm
một thứ yêu thương hạnh phúc đích thực ngay ở bên trong tâm hồn mình. Ngài đã
cho chị biết rằng chị đang đi tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc, nhưng chưa đúng
chỗ. Và Ngài giới thiệu với chị một thứ nước có thể làm dịu cơn khát tình yêu
và hạnh phúc, về ý nghĩa cuộc sống của chị. Nước ấy từ đâu mà có? Suối nguồn
nước ấy lại ở ngay chính trong tâm hồn chị. Chỉ cần khơi lại suối nước ấy. Đó
là suối nước đã bị bít kín nơi tâm hồn người phục nữ và nơi tâm hồn mỗi người
chúng ta. Suối nước ấy là sự sống của Thiên Chúa đang sôi sục bên trong tâm hồn
chúng ta.
Sự khám phá
về Thiên Chúa giống như khám phá về nguồn suối ân huệ của Thiên Chúa ở bên
trong chúng ta. Ân huệ của Thiên Chúa như hạt giống tốt đã được gieo vào lòng
chúng ta. Chúng ta phải có nhiệm vụ làm cho hạt giống tốt ấy nẩy sinh và phát
triển.
Một phụ nữ nằm mơ thấy mình đang bước vào một cửa hàng mới khai
trương. Ngạc nhiên nhìn thấy Thiên Chúa ngồi sau quầy hàng, chị hỏi:
- Chúa bán gì ở đây vậy?
Chúa trả lời:
- Ta bán mọi thứ mà lòng người ao ước.
Thích quá, chị quyết định mua một thứ mà con người ai cũng mơ
ước. Chị thưa với Chúa:
- Con muốn mua những hoa quả ban sự bình an trong tâm hồn, hạnh
phúc, khôn ngoan, và sự tự do thoát khỏi mọi sợ hãi. Không chỉ cho con mà cho
hết mọi người.
Chúa mỉm cười bảo:
- Con hiểu lầm rồi. Ta không bán hoa quả. Ta chỉ bán hạt giống
của những thứ hoa quả mà con muốn mua.
Cuộc gặp gỡ
với Chúa Giêsu bên giếng nước Giacóp đã biến đổi cuộc đời của người phụ nữ
Samari: ”Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.
Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?". Bà đã đón nhận được ơn tái
sinh. Mạch suối nội tâm của bà đã bị quên lãng, bị vùi lấp bao nhiêu năm, nay
đã được khơi lên. Chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa mới có thể làm dịu cơn khát
của tâm hồn.
Đi tìm nguồn
suối nội tâm là khám phá về Thiên Chúa: ”Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở
lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện
nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên
Chúa” (Rm.5: 2)
Ăn uống là
hai nhu cầu thiết yếu cho sự sống vật chất con người, nhưng với con người tâm
linh, thì thức ăn lại là lời của Thiên Chúa: ”Người ta sống không nguyên bởi
bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” và thức uống lại là những
ân huệ Ngài đã ban cho chúng ta, là cái chết của Đức Kitô trên thánh giá. Lương
thực của Chúa Giêsu ”là thi hành ý muốn của Đấng đã sai thầy và hoàn tất công
trình của Người” thì chúng ta cũng phải tìm đến những lương thực ấy.
“Đức Kitô đã
chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng
chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm. 5:8). Nhờ cái chết của Đức Kitô, nhân
loại đã có được một mạch suối nước hằng sống là những ân huệ Thiên Chúa ban.
Chúa Giêsu
Kitô là bánh hằng sống, là nước trường sinh, là đường là sự thật và là sự sống,
không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Đức Giêsu Kitô. ”Chính nhờ Đức Kitô,
cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần mà mọi vinh
quang và danh dự đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến muôn thuở muôn
đời".
Lm Trịnh Ngọc Danh